Trường hợp tiền án, tiền sự mà yếu tố này được lấy làm yếu tố cấu thành tội phạm thì có được hưởng án treo không?

Câu hỏi:

Anh A đang có tiền án về tội cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS), đến nay chưa được xóa án tích lại phạm tiếp tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172 BLHS). Anh A bị truy tố theo điểm b khoản 1 Điều 172 BLHS với mức hình phạt đề nghị là 30 tháng tù. Xin hỏi luật sư, trường hợp của anh A có tiền án, tiền sự mà yếu tố này được lấy làm yếu tố cấu thành tội phạm thì có được hưởng án treo không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Hình sự năm 2015

Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo

  1. Nội dung tư vấn:

Anh A trong tình huống này không được hưởng án treo. Ở đây chúng ta cần làm rõ cơ sở để Tòa án căn cứ cho người phạm tội hưởng án treo và mối liên hệ giữa cơ sở đó với việc có tiền án, tiền sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015

“Điều 65. Án treo

  1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự…”

Như vậy, án treo được áp dụng trước hết căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ khác.

Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP:

“Điều 2. Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo

…2. Có nhân thân tốt.

Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.

Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo…”

Như vậy, anh A do có tiền án, tiền sự nên không được coi là “có nhân thân tốt” để đủ điều kiện hưởng án treo, bất kể trong trường hợp lấy hay không lấy tiền án, tiền sự làm yếu tố cấu thành tội phạm.

Vậy, anh A không được hưởng án treo vì việc có tiền án, tiền sự là cơ sở để xác định anh A không “có nhân thân tốt”, bất kể trong trường hợp lấy hay không lấy tiền án, tiền sự làm yếu tố cấu thành tội phạm.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Khái niệm bán dâm và quy định của pháp luật đối với hành vi bán dâm

Câu hỏi

Tôi được biết công an vừa phá đường dây mua bán dâm người mẫu, diễn viên đến 30.000 USD. Vậy cho hỏi hành vi bán dâm được hiểu như thế nào và hành vi đó có vi phạm pháp luật không? Nếu có bị xử lý như thế nào?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Bộ luật Hình sự năm 2015;
  • Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003;
  • Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 do Chính phủ ban hành quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình;
  1. Nội dung tư vấn:

Khái niệm bán dâm:

Khái niệm bán dâm là từ ngữ được giải thích tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003:

“Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.”

Cấu thành của hành vi bán dâm:

Về chủ thể: chủ thể thực hiện hành vi được giải thích trong khái niệm này đối với một người khác.

Về hành vi chủ quan: hành vi bán dâm được giải thích là hành vi giao cấu của chủ thể đối với một người khác.

Về ý chí chủ quan: ý chí chủ quan của chủ thể hành vi bán dâm khi thực hiện hành vi chủ quan là nhằm mục đích để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Với mục đích này chủ thể có ý thức lựa chọn xử sự gây thiệt hại cho xã hội trong khi có đủ điều kiện không thực hiện hành vi đó. Chủ thể nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn tìm mọi cách thực hiện để đạt được mục đích.

Về khách thể: hành vi bán dâm xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống lành mạnh văn minh cũng như đạo đức xã hội chủ nghĩa. Hành vi mại dâm tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, cá nhân, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 thì hành vi bán dâm bị nghiêm cấm.

Hành vi bán dâm trong quan hệ dân sự: Theo Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hoạt động mua, bán dâm là giao dịch dân sự. Tuy nhiên, Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Căn cứ khoản 3 Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế nên đây là một giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối.

Hành vi bán dâm trong quan hệ hành chính: Người có hành vi “bán dâm” sẽ bị xử lý hành chính theo quy định tại Điều 23 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

– Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi bán dâm.

– Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho nhiều người cùng một lúc.

– Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính nêu trên, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hành vi bán dâm trong quan hệ hình sừ: hành vi bán dâm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng, nếu trong quá trình bán dâm mà lây nhiễm HIV cho người mua dâm thì có thể bị xử lý hình sự theo Điều 148 hoặc 149 Bộ luật hình sự 2015; cụ thể:

“ Điều 148. Tội lây truyền HIV cho người khác

  1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm…”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thời gian Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án có được trừ vào thời hiệu khởi kiện?

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, tôi hiện đang sinh sống tại Lào Cai, tôi đang có khiếu kiện liên quan đến quyết định hành chính của một cơ quan Nhà nước. Khiếu kiện của tôi lần đầu được rút đơn khởi kiện và cùng ngày Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Thời gian Tòa án thụ lý vụ án lần đầu là 16 tháng. Sau đó tôi khởi kiện lần 2 vụ án với nội dung như ban đầu thì Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã trả lại đơn khởi kiện của tôi với lý do thời hiệu khởi kiện đã hết. Tôi xin hỏi là thời gian Tòa án thụ lý vụ án có được trừ vào thời hiệu khởi kiện và sự hợp hay không của quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

  1. Nội dung tư vấn:

Khoảng thời gian thụ lý vụ án không được trừ ra khi tính thời hiệu khởi kiện. Ở đây chúng ta cần làm rõ khái niệm thời hiệu khởi kiện, các tình huống kéo dài thời hiệu khởi kiện, giải thích định nghĩa những tình huống này và nhận định tình huống thực tế so với định nghĩa đó.

Căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

“Điều 116:Thời hiệu khởi kiện

…2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

     a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;…”

Căn cứ theo khoản 4 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

“Điều 116: Thời hiệu khởi kiện

…4. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện”.

Căn cứ theo khoản 13 và 14 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì sự kiện bất khả kháng và trợ ngại khác quan được giải thích như sau:

“Điều 3: Giải thích từ ngữ

…13. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ của mình.

  1. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”

Ở đây không có trở ngại khách quan vì không có trở ngại nào do hoàn cảnh tác động làm cho bạn không thể biết việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi thực tế bạn đã biết (thông qua việc khởi kiện lần đầu) cũng như không có trở ngại nào do hoàn cảnh tác động làm cho bạn không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình bởi lẽ bạn đã khởi kiện và tự rút đơn khởi kiện và một thời gian sau mới khởi kiện lại làm hết thời hiệu khởi kiện. Tất cả đều là do hành động và quyết định chủ quan của bạn (không có tác động nào của hoàn cảnh khách quan).

Trường hợp bạn nêu không có sự kiện bất khả kháng như định nghĩa tại khoản 14 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 nêu trên.

Như vậy khoảng thời gian thụ lý vụ án lần đầu không được trừ ra khi tính thời hiệu khởi kiện. Và việc Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai trả lại đơn khởi kiện của bạn là hoàn toàn đúng pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trong những trường hợp nào người nước ngoài sẽ bị đưa vào danh sách đen

Câu hỏi

Tôi có một người bạn Trung Quốc hiện đang ở thành phố Hà Nội. Anh ấy đã ở đây từ năm 2018. Nhưng vừa qua, anh ấy xin cấp thẻ để tiếp tục được sống ở Việt Nam thì họ cho biết anh ấy bị liệt vào danh sách đen. Anh ấy là một người tốt, luôn giúp đỡ mọi người và dạy chúng tôi học tiếng Anh, anh ấy không vi phạm pháp luật. Vậy tại sao anh ấy bị liệt vào danh sách đen và không được cấp thẻ? Anh ấy phải làm gì để có thể được ở lại Việt Nam?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  • Luật phòng chống rửa tiền 2012
  • Nghị đinh 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 do Chính phủ ban hành về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền;
  • Nghị định 87/2019/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2019 do Chính phủ ban hành sửa đổi Nghị định 116/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Phòng, chống rửa tiền;
  1. Nội dung tư vấn:

Để có thể ở lại Việt Nam, bạn của bạn cần gửi đơn khiếu nại lên cơ quan điều tra thuộc Bộ công an, khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi tố tụng đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ sở để gửi đơn khiếu nại này là Điều 469 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” Nếu không khiếu nại việc thuộc danh sách đen thì bạn của bạn phải chịu mọi hậu quả của việc nằm trong danh sách này.

Ở đây chúng ta cần làm rõ khái niệm danh sách đen, các cơ quan có thẩm quyền điều tra những giao dịch bị nghi ngờ và căn cứ để hủy quyết định, hành vi liệt bạn của bạn vào danh sách đen.

Căn cứ theo khoản 12 Điều 4 Luật phòng chống rửa tiền 2012 thì “Danh sách đen” là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng bố do Bộ Công an chủ trì lập theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, theo Điều 18 Nghị định 116/2013/NĐ-CP về việc báo cáo hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố như sau:

     “1. Hành vi rửa tiền nhằm tài trợ khủng bố là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có để tài trợ cho tổ chức, cá nhân khủng bố hoặc tài trợ cho hành vi khủng bố.

  1. Căn cứ cho rằng tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi có liên quan đến tội phạm rửa tiền nhằm tài trợ cho khủng bố gồm:

     a) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân theo danh sách trong các nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc;

     b) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân theo danh sách những tổ chức, cá nhân khủng bố và tài trợ cho khủng bố do tổ chức quốc tế khác hoặc quốc gia khác trên thế giới lập ra và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cảnh báo;

     c) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân đã từng bị kết án về các tội khủng bố, tội tài trợ cho khủng bố tại Việt Nam;

     d) Thực hiện hoặc có ý định thực hiện giao dịch liên quan tới tổ chức, cá nhân khủng bố hoặc tài trợ khủng bố mà đối tượng báo cáo biết được từ các nguồn thông tin khác.

     3. Báo cáo kịp thời theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật phòng, chống rửa tiền là báo cáo ngay sau khi phát hiện tổ chức, cá nhân thực hiện giao dịch nằm trong danh sách đen hoặc ngay sau khi có căn cứ nêu tại Khoản 2 Điều này.

     4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm hướng dẫn đối tượng báo cáo thực hiện Khoản 1 Điều 30 Luật phòng, chống rửa tiền theo pháp luật về phòng, chống rửa tiền và pháp luật về phòng, chống khủng bố.

     5. Đối tượng báo cáo phải áp dụng biện pháp phòng ngừa nêu tại Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 8, Điều 10, Điều 13, Điều 14 Nghị định này để đảm bảo báo cáo kịp thời theo quy định tại Khoản 3 Điều này.”

Theo những quy định trên, có thể do bạn của bạn đã thực hiện một số hành vi nêu trên nên bị liệt vào danh sách đen và không được cấp thẻ ở lại Việt Nam.

Theo quy định tại khoản 4, 5 Điều 20 Nghị định 116/2013/NĐ-CP cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định trên khi tiếp nhận thông tin hoặc hồ sơ vụ việc có trách nhiệm phân loại, giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và lưu giữ các thông tin, báo cáo, tài liệu nhận được theo chế độ mật và phản hồi ngay khi có kết quả xử lý cho cơ quan phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Các cơ quan có thẩm quyền điều tra những giao dịch này bao gồm:

– Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an;

– Cơ quan điều tra thuộc Bộ Quốc phòng;

– Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

– Cơ quan có thẩm quyền điều tra ban đầu

Điều 469 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”

Vậy, để có thể ở lại Việt Nam, bạn của bạn cần gửi đơn khiếu nại lên cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi tố tụng đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong thời hạn bảy ngày, cơ quan công an sẽ xem xét và giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tính hợp pháp của di chúc miệng trước mặt 3 người, trong đó, 1 người là người thừa kế theo di chúc; và 1 người 5 tuổi.

Câu hỏi

Anh A đã chết ngày 17/06/2020. Ngay trước khi anh A chết thì anh A đã để lại di chúc miệng trước sự chứng kiến của 3 người, là tôi (tên là B), anh C và em D (5 tuổi). Theo nội dung di chúc miệng của anh A trước khi chết thì toàn bộ tài sản của anh A sẽ do tôi thừa kế. Tôi xin hỏi, di chúc miệng của anh A có hợp pháp không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

–    Bộ luật Dân sự năm 2015;

  1. Nội dung tư vấn:

Khách hàng mong muốn biết các căn cứ về tính hợp pháp của di chúc miệng. Chúng tôi xin đưa ra tư vấn về việc di chúc miệng của anh A có hợp pháp không.

Di chúc miệng của anh A không hợp pháp. Ở đây chúng ta cần làm rõ căn cứ để di chúc miệng được coi là hợp pháp; xác định độ tuổi chưa thành niên theo Bộ luật Dân sự và các yêu cầu về người làm chứng cho di chúc.

Tại khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì di chúc miệng phải được thể hiện trước mặt ít nhất 2 người làm chứng.

Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Vì vậy em D 5 tuổi được xác định là người chưa thành niên.

Tại Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì những người sau đây không được làm chứng cho di chúc:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
  2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
  3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Do anh là người thừa kế theo di chúc nên sẽ không được làm chứng cho di chúc miệng đó. Em D do đang ở độ tuổi chưa thành niên nên không được làm chứng cho di chúc. Di chúc miệng của anh A chỉ có anh C là người làm chứng hợp pháp. Tuy nhiên theo khoản 5 Điều 630 yêu cầu di chúc miệng có ít nhất 2 người làm chứng, do di chúc miệng của anh A chỉ có 1 người làm chứng nên di chúc miệng của anh A là không hợp pháp.

Vậy, di chúc miệng của anh A không hợp pháp vì không có ít nhất 2 người làm chứng theo luật định.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Xử lý người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi dưới mức hình phạt tối đa theo luật định

Câu hỏi

Lúc thực hiện hành vi phạm tội cướp tài sản anh A 17 tuổi 2 tháng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tội cướp tài sản. Tôi xin hỏi, Tòa án có được xử anh A mức hình phạt là 04 năm tù không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017;
  1. Nội dung tư vấn:

Trong trường hợp này, Tòa án nếu có đủ căn cứ thì được phép xử anh A mức hình phạt là 4 năm tù. Ở đây cần làm rõ vấn đề mức hình phạt thông thường cho tội cướp tài sản và việc xử phạt dưới khung hình phạt đối với bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tội cướp tài sản có khung hình phạt là phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mức phạt tù có thời hạn cao nhất được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.

Vậy, luật chỉ khống chế mức phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà không khống chế mức thấp nhất. Do đó, trong trường hợp nêu trên, Tòa án có thể áp dụng mức phạt 04 năm tù đối với bị cáo.

Như vậy, Tòa án nếu có đủ căn cứ được phép xử anh A mức hình phạt là 4 năm tù, nếu việc áp dụng hình phạt đó bảo đảm được mục đích của hình phạt và các nguyên tắc trong việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hợp đồng gửi giữ có đối tượng là tài sản cấm lưu thông

Câu hỏi

Trong quá trình khám xét nhà của anh A, Công an phát hiện nhà của A có chứa một lượng lớn ngà voi. Khi bị Công an lập biên bản , A nói A chỉ là người nhận trông giữ tài sản. A xuất trình hợp đồng viết tay. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng viết tay này có hiệu lực không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  • Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017;
  • Nghị định số 06/2019/NĐ của Chính phủ ngày 22/01/2019 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp;
  1. Nội dung tư vấn:

Hợp đồng gửi giữ của anh A vô hiệu. Ở đây chúng ta cần làm rõ ngà voi có được tàng trữ hay không và hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm điều cấm của luật.

Voi là động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 234 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm…”. Vậy hành vi tàng trữ ngà voi là hành vi bị cấm vì ngà voi là loại tài sản bị cấm lưu thông, buôn bán và tàng trữ.

Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Vì vậy hợp đồng gửi giữ của A với đối tác vô hiệu do nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật do ngà voi không thể là đối tượng của hợp đồng gửi giữ được.

Hợp đồng gửi giữ của anh A là hợp đồng vô hiệu tuyệt đối vì ngà voi là loại tài sản cấm lưu thông, buôn bán và tàng trữ.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an

Câu hỏi

Những ngày gần đây, dư luận xôn xao về vụ án môi giới mại dâm mà mỗi lần mua bán dâm giá từ 18.000 – 30.0000 USD. Điểm đáng chú ý là vụ án lần này do Cơ quan điều tra thuộc Cục Cảnh sát hình sự – C02 (Bộ Công an) tiến hành điều tra tội danh môi giới mại dâm. Tôi xin hỏi, việc điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Cục Cảnh sát hình sự – C02 (Bộ Công an) có đúng với thẩm quyền không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017;
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn:

Việc tiến hành điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Cục Cảnh sát hình sự – C02 (Bộ Công an) là đúng với thẩm quyền. Ở đây chúng ta cần làm rõ thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an cấp tỉnh, quyền hạn điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì quyền hạn của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an cấp tỉnh là:

“2. Tiến hành Điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Khoản 2 Điều 21 của Luật này khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền Điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp Điều tra.

Khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo đó vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Xét thấy, tội môi giới mại dâm quy định tại Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định đối với tội ấy là đến 15 năm tù. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì đây là tội phạm nghiêm trọng.  Tuy nhiên, do vụ án này có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xác định vụ án này thuộc thẩm quyền Điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an cấp tỉnh.

Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an:

Khoản 2 Điều 19 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an:

“…2. Tiến hành Điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền Điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an cấp tỉnh về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp Điều tra; các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại…”

Như vậy, đối với Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an thì cơ quan này có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an cấp tỉnh về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp Điều tra.

Xét thấy, do vụ án này có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án xét thấy cần trực tiếp điều tra nên căn cứ khoản 2 Điều 19 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 để xác định vụ án này thuộc thẩm quyền Điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thời điểm chuyển rủi ro đối với nguyên vật liệu trong hợp đồng gia công.

Câu hỏi

Chị A đến cửa hàng của chị B đặt may một bộ đồng phục, nhưng vì cửa hàng của chị B hết loại vải mà chị A chọn nên chị A buộc phải sang cửa hàng của anh C để mua vải mang sang cửa hàng chị B để may. Cửa hàng của chị B chập điện cháy khiến mảnh vải mà chị A chuyển giao cho chị B cũng bị cháy. Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, chị A có quyền yêu cầu chị B bồi thường cho mình không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn:

Chị A sẽ không được bồi thường giá trị mảnh vải nếu sự kiện chập điện của cửa hàng chị B hoàn toàn do khách quan. Ở đây chúng ta cần làm rõ thời điểm chuyển rủi ro đối với nguyên vật liệu trong hợp đồng gia công.

Theo quy định tại Điều 548 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 548. Trách nhiệm chịu rủi ro

Cho đến khi giao sản phẩm cho bên đặt gia công, bên nào là chủ sở hữu của nguyên vật liệu thì phải chịu rủi ro đối với nguyên vật liệu hoặc sản phẩm được tạo ra từ nguyên vật liệu đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác…”

Do đó, nếu không có thỏa thuận khác, thì chị A sẽ không được bồi thường phần giá trị mảnh vải đã bị cháy do ở thời điểm bị thiệt hại, mảnh vải đang là tài sản thuộc sở hữu của chị A.

Như vậy, nếu sự kiện chập điện của cửa hàng chị B hoàn toàn do khách quan và không có thỏa thuận khác, thì chị A sẽ không được bồi thường phần giá trị mảnh vải đã bị cháy do ở thời điểm bị thiệt hại do ở thời điểm bị thiệt hại trách nhiệm chịu rủi ro của nguyên vật liệu gia công thuộc về chị A – chủ sở hữu của nguyên vật liệu.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thời hiệu của quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Câu hỏi:

3 năm trước, vì tôi điều khiển phương tiện vi phạm luật giao thông đường bộ nên bị cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản với hình phạt duy nhất là phạt tiền và tạm giữ giấy phép lái xe của tôi. Sau thời gian đó tôi đi nước ngoài nên không thể chấp hành quyết định xử phạt đó. Đến nay tôi về nước thì cần giấy phép lái xe để tiếp tục điều khiển phương tiện để đi lại. Tôi xin hỏi, hiện giờ tôi nên làm gì để lấy lại giấy phép lái xe của tôi.

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi năm 2015 và năm 2019;
  • Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn:

Hiện tại, tuy thời hiệu thi hành quyết định xử phạt đã hết tuy nhiên bạn vẫn nên tự nguyện thi hành nghĩa vụ nộp phạt vào kho bạc nhà nước. Thủ tục thi hành quyết định xử phạt được quy định tại Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Trong yêu cầu của bạn, cùng với vấn đề thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là vấn đề xử lý giấy phép bị tạm giữ theo thủ tục hành chính, nếu bạn không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt đó thì bạn sẽ không lấy được giấy phép lái xe của bạn.

Khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thời hiệu khiếu kiện hành chính là 1 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính. Do đến nay đã 3 năm kể từ ngày bạn nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản nên bạn đã mất quyền khởi kiện quyết định nói trên.

Nếu hiện nay cơ quan có thẩm quyền chưa thi hành quyết định xử phạt hành chính đó thì sẽ không được thi hành quyết định nữa do đã quá thời hiệu thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính 2015.

Trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt và không thuộc các trường hợp hoãn thi hành quyết định phạt tiền; giảm, miễn tiền phạt theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì phải bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 86, 87 và 88 Luật này. Đây là trách nhiệm của cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, cá nhân, tổ chức bị xử phạt chỉ bị coi là cố tình trốn tránh, trì hoãn việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định pháp luật mà vẫn không thi hành; đồng thời, cố tình tìm cách trốn tránh, trì hoãn việc chấp hành quyết định đó như tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho việc thi hành… Nếu hết thời hạn quy định người bị xử phạt không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt không có bất kỳ biện pháp nào buộc người bị xử phạt phải chấp hành quyết định đó thì không thuộc trường hợp người bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành quyết định. Như vậy, trường hợp của bạn không bị coi là cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành quyết định.

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu qua một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, trường hợp của bạn đã qua thời hạn nên được coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Giấy phép lái xe của bạn hiện đang bị tạm giữ tại nơi ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục không lập biên bản nhằm đảm bảo thi hành quyết định xử phạt đó. Vì vậy để lấy lại giấy phép lái xe của bạn thì bạn phải thi hành quyết định đó trước, theo quy định tại khoản 2 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì:

“Điều 126. Xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính

…2. Đối với tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt theo khoản 6 Điều 125 của Luật này phải được trả ngay cho người bị xử phạt sau khi thi hành xong quyết định xử phạt…”

Vậy, trường hợp này bạn phải thi hành xong quyết định xử phạt thì sẽ được cơ quan đang tạm giữ giấy phép lái xe của bạn trả ngay giấy phép lái xe.

Như vậy, hiện tại để lấy lại giấy phép lái xe của bạn thì bạn phải thi hành xong quyết định xử phạt. Hiện tại, thời hiệu thi hành quyết định xử phạt đó đã hết nên các cơ quan sẽ không có biện pháp cưỡng chế nào để thi hành nó và bạn cũng được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Ủy quyền trong tố tụng hành chính của cơ quan nhà nước, người đứng đầu trong cơ quan nhà nước.

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, tôi muốn hỏi Chủ tịch UBND tỉnh đã thực hiện việc ủy quyền bằng văn bản cho một thành viên của HDND tỉnh đại diện tham gia tố tụng tại một phiên tòa hành chính. Việc ông Chủ tịch UBND tỉnh ủy quyền cho một người khác là thành viên HDND tỉnh tham gia tố tụng đại diện cho UBND tỉnh thì có hợp pháp không.

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn:

Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015:

“3. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản.

Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính.

Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này.”

Theo đó, việc ủy quyền thực hiện tham gia tố tụng hành chính đối với người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện.

Trong trường hợp này, Chủ tịch UBND tỉnh ủy quyền tham gia tố tụng hành chính cho một thành viên HDND tỉnh là trái quy định pháp luật. Chủ tịch UBND tỉnh chỉ có thể thực hiện việc ủy quyền bằng văn bản cho cấp phó của mình, trong trường hợp này là ông Phó Chủ tịch UBND tỉnh để thực hiện việc tham gia tố tụng tại Tòa án theo thông báo của Tòa.

Việc ủy quyền theo quy định trên thì người được ủy quyền hợp pháp sẽ phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tội chống người thi hành công vụ

Câu hỏi

Khi bị dừng xe để chuẩn bị bị xử phạt về hành vi không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, anh A đã có hành vi đánh cán bộ cảnh sát giao thông đề nghị xử phạt hành chính anh A. Tuy nhiên, cán bộ cảnh sát giao thông dừng xe anh A đã hết thời gian làm việc trong ngày, không thực hiện nhiệm vụ và đang trên đường đi về nhà. Tôi xin hỏi, trường hợp của anh A có cấu thành tội phạm tội chống người thi hành công vụ không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
  1. Nội dung tư vấn:

Căn cứ theo quy định của pháp luật, anh A không cấu thành tội phạm tội chống người thi hành công vụ.

Căn cứ Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

“Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ

  1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

     a) Có tổ chức;

     b) Phạm tội 02 lần trở lên;

     c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;

     d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên;

     đ) Tái phạm nguy hiểm.”

Anh A phạm tội chống người thi hành công vụ theo quy định tại Điều 330 Bộ luật hình sự nêu trên nếu thỏa mãn toàn bộ các điều kiện về khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm.

Tuy nhiên, về khách thể, anh A phải xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ tức có thể hiểu thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công thì mới thỏa mãn cấu thành tội phạm.

Theo đó, đối tượng tác động của tội phạm này phải là người đang thi hành công vụ. Người đang thi hành công vụ phải là người thi hành một công vụ hợp pháp, mọi thủ tục, trình tự thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công vụ lại là người làm trái pháp luật mà bị xâm phạm thì hành vi của người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành công vụ.

Trong trường hợp này, cán bộ cảnh sát giao thông đã không còn được giao nhiệm vụ như trong thời gian làm việc nữa, theo đó, không thuộc trường hợp đang thi hành công vụ. Do vậy, hành vi của A không thỏa mãn điều kiện về khách thể.

Do đó, A không cấu thành tội phạm tội chống người thi hành công vụ.

Tuy nhiên, A có hành vi dùng vũ lực tấn công cán bộ cảnh sát giao thông nói trên, theo đó, hành vi của A có thể cấu thành tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc tội phạm khác có liên quan theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com