Việc thi hành án hình sự khi đang kháng cáo

Câu hỏi

Con trai tôi vừa được tuyên án về tội cố ý gây thương tích. Vì không đồng ý với bản án hình sự sơ thẩm này nên con trai tôi muốn kháng cáo để được xét xử lại. Tôi muốn hỏi Luật sư trong thời gian kháng cáo con tôi có phải thi hành án ngay không?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  1. Nội dung

Khi bản án sơ thẩm bị kháng cáo thì bị cáo chưa phải thi hành án trong thời gian này.

Ở đây chúng ta cần làm rõ quy định về hiệu lực của bản án sơ thẩm, quy định về thời hạn ra quyết định thi hành bản án.

Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:

“1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.”

Đồng thời, tại Điều 343 Bộ luật này cũng quy định: “Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.”

Như vậy, theo quy định trên, bản án hình sự sơ thẩm không có hiệu lực ngay khi tuyên án, mà chỉ có hiệu lực khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thời hạn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp của con trai bạn, nếu không đồng ý với quyết định tại bản án sơ thẩm, phải chuẩn bị đơn và các thủ tục theo luật định để làm đơn kháng cáo trong thời hạn quy định.

Tại Khoản 2 Điều 364 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.” Như vậy khi bản án sơ thẩm bị kháng cáo thì chưa phát sinh hiệu lực pháp luật, chưa đủ điều kiện thi hành án do vậy con trai của bạn chưa phải thi hành án trong thời gian này.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tội nhận hối lộ và giao dịch dân sự do giả tạo

Câu hỏi

Anh D.T.N là anh trai ruột của D.T.H, H vừa bị công an bắt vì tội mua bán trái phép chất ma túy. Anh N quen với anh D, là Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra vụ án này. Khi gặp mặt anh N có đề nghị mong anh D giúp đỡ cho H là em trai N được tại ngoại. Anh D nhận lời và hứa với N rằng sẽ xin giúp cho H được tại ngoại. Sau ngày gặp mặt vài hôm anh N có đến nhà anh D chơi. Khi vào nhà anh D, anh N thấy anh D có 1 chuồng có 1 cặp họa mi rất đẹp và đề nghị mua lại với giá 100.000.000 đồng. Anh D đồng ý với đề nghị của anh N và giao dịch hoàn tất. Sau đó vài ngày, anh D đã đề xuất tạm tha H và H đã được tại ngoại đúng như lời hứa của anh D với anh N. Hành vi của anh D có cấu thành tội nhận hối lộ không?

  1. Cơ sở pháp lý
  2. Nội dung

Nếu giao dịch mua cặp chim họa mi không bị xác định là giao dịch giả tạo để che dấu hành vi nhận tiền từ anh N thì hành vi của anh D không cấu thành tội nhận hối lộ. Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì anh D có quyền cung cấp chứng cứ bảo vệ cho mình. Vì vậy, việc bạn cần làm là thu thập các chứng cứ để chứng minh rằng giao dịch mua bán cặp chim họa mi không phải là giao dịch giả tạo. Nếu không thu thập được chứng cứ chứng minh rằng đó không là giao dịch giả tạo và cơ quan chức năng chứng minh được đó là giao dịch giả tạo để che dấu hành vi nhận tiền thì căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự mua bán chim sẽ vô hiệu và giao dịch bị che dấu sẽ có hiệu lực.

Ở đây chúng ta cần làm rõ nội dung hành vi khách quan của cấu thành tội phạm tội nhận hối lộ, đặc điểm riêng của giao dịch dân sự mua bán hàng hóa, hậu quả của việc giao dịch dân sự bị xác định là vô hiệu do giả tạo, các căn cứ để nhận biết hợp đồng giả tạo.

Hành vi khách quan của cấu thành tội phạm tội nhận hối lộ có hành vi nhận lợi ích từ người đưa hối lộ để làm hoặc không làm bất cứ việc gì vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Việc mua bán cặp họa mi là giao dịch dân sự mua bán hàng hóa thuần túy. Nghĩa vụ giao tiền là nghĩa vụ để đền bù cho nghĩa vụ giao vật là cặp họa mi trong một hợp đồng song vụ ưng thuận về mua bán hàng hóa. Vậy việc nhận lợi ích là tiền từ anh N là để đền bù cho nghĩa vụ giao vật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc luật khác có liên quan.

Các căn cứ để nhận biết giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là:

  • Xét về các điều kiện giao dịch như chủ thể tham gia giao dịch có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
  • Mục đích nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức. Mục đích nội dung có xung đột với các thỏa thuận trước và sau hay không.
  • Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật hay không.
  • Chủ thể tham gia giao dịch đó có hoàn toàn tự nguyện hay không? Để giải quyết hợp đồng giả tạo theo quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự 2015 thì cần phải làm rõ yếu tố khách quan của nó là luôn tồn tại hai hợp đồng trong đó một hợp đồng bề ngoài và một hợp đồng bị che giấu.
  • Ý chí bày tỏ ý chí của các bên trong trường hợp này là không thống nhất.

Vậy nếu cơ quan có thẩm quyền không thể chứng minh giao dịch dân sự mua cặp chim họa mi là giả tạo thì hành vi của anh N sẽ không cấu thành hành vi khách quan của tội nhận hối lộ. Anh N có thể thu thập các chứng cứ chứng minh giao dịch của mình là không giả tạo.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra

Câu hỏi

Tôi năm nay 20 tuổi và hiện đang học nghề tại một tiệm sửa chữa xe mô tô do ông H làm chủ. Cách đây mấy ngày tôi được giao sửa một chiếc xe của khách hàng, sau khi sửa xong thấy khách chưa đến lấy xe nên tôi tranh thủ lấy xe của khách chạy đi công việc cá nhân. Do bất cẩn, tôi điều khiển xe tông vào ông N cũng đang điều khiển xe máy làm cả hai xe đều bị hư hỏng, về người thì không bị thiệt hại gì? Sau đó khách hàng sửa xe và cả ông N đều yêu cầu tôi bồi thường thiệt hại. Xin hỏi họ yêu cầu như vậy có đúng theo quy định của pháp luật không?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  1. Nội dung

Việc khách hàng yêu cầu bạn bồi thường thiệt hại là không đúng quy định của pháp luật. Việc ông N yêu cầu bạn bồi thường thiệt hại là đúng pháp luật.

Ở đây chúng ta cần làm rõ quy định về chủ thể bị yêu cầu phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.

Theo Điều 600 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra như sau: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” và Khoản 4 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: “Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.”. Xe mô tô là phương tiện giao thông vận tải cơ giới được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ (Khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Căn cứ vào các quy định trên, thì quyền yêu cầu bồi thường và trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hư hỏng của chiếc xe khách hàng và xe của ông N như sau:

Đối với thiệt hại gây ra cho xe của ông N – người bị bạn tông vào, do bạn tự ý lấy xe của khách đi mà không được sự đồng ý của chủ tiệm và gây ra thiệt hại, tức là thiệt hại gây ra không phải khi đang thực hiện công việc được chủ giao mà hoàn toàn do lỗi của bạn vì bạn đã chiếm hữu, sử dụng chiếc xe đó trái pháp luật. Do vậy, ông N có quyền yêu cầu một mình bạn phải bồi thường thiệt hại cho ông N.

Đối với thiệt hại gây ra chiếc xe máy do khách hàng giao cho tiệm ông H sửa chữa, khách hàng chỉ có quyền yêu cầu ông H có trách nhiệm bồi  thường chứ không phải yêu cầu bạn bồi thường. Bởi vì ông H với tư cách là chủ tiệm có nghĩa vụ trông giữ, bảo quản khi thực hiện việc nhận sửa xe. Bạn đang học nghề tại tiệm ông H, dù bạn là người trực tiếp gây hư hỏng chiếc xe này của khách nhưng ông H phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu Ông H có yêu cầu thì bạn phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông H một khoản tiền theo quy định vì trong trường hợp này bạn đã có lỗi tự ý lấy xe đi và bất cẩn gây tai nạn.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Câu hỏi

“Ngày 28/9/2016 ông A có nhận chuyển nhượng của ông B diện tích đất 696m2 thuộc thửa số 567, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Thôn Đ C, xã S L, thị xã S T với giá chuyển nhượng là 690.000.000đồng. Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng thì ông A có đặt cọc cho ông B 20.000.000 đồng và có viết giấy tay đặt cọc.

Đến ngày 12/10/2016 ông A và ông B có viết giấy tay sang nhượng diện tích đất trên với số tiền là 150.000.000 đồng nhằm mục đích trốn thuế. Sau đó ông A và ông B đến Văn phòng công chứng H T để lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định, tại hợp đồng này chỉ ghi giá chuyển nhượng là 50.000.000 đồng nhằm mục đích trốn thuế, cùng ngày 12/10/2016 ông A và ông B đã nộp toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng lên bộ phận một cửa của Ủy ban nhân dân thị xã S T, phiếu hẹn đến ngày 03/11/2016 sẽ trả kết quả, phiếu hẹn này ông B giữ bản chính.

Ngày 17/10/2016 thì ông B đến bộ phận một cửa rút toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng đất và tuyên bố không chuyển nhượng cho ông A nữa nên ông A khởi kiện yêu cầu ông B tiếp tục duy trì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập 12/10/2016 giữa ông A và ông B.”

Tôi xin hỏi, nếu Tòa án chứng minh được giao dịch giữa 2 ông A và B được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A có được Tòa án chấp nhận không?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  1. Nội dung

Nếu Tòa án chứng minh được giao dịch giữa 2 ông A và B được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A sẽ không được Tòa án chấp nhận.

Ở đây chúng ta cần làm rõ, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, hậu qua bị Tòa án xác định là hợp đồng vô hiệu.

Theo điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 về Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:

“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu; còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

Việc lập một thỏa thuận khác nhằm che giấu hợp đồng chuyển nhượng là hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Một khi giao dịch giả tạo bị tuyên vô hiệu, giao dịch bị che giấu vẫn còn hiệu lực và các bên liên quan vẫn thực hiện theo đúng quy định pháp luật, tức là kê khai đúng với giá trị thực tế của hợp đồng và thực hiện đóng thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật, và các bên phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ dựa trên hợp đồng thực.

Khi hợp đồng bị che giấu bị vô hiệu theo quy định pháp luật thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ hợp đồng và theo quy định tại:

“Điều 427. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng

1….

  1. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.

Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.”

Vậy hợp đồng đã bị Tòa án chứng minh được giao dịch được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A sẽ không được Tòa án chấp nhận do hợp đồng đó sẽ bị Tòa án xác định là vô hiệu do giả tạo.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tình tiết “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” và “người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm”.

  1. Nội dung

Người thân của tôi vừa bị mất do tai nạn giao thông. Người gây tai nạn giao thông đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì người gây tai nạn là người thân của gia đình, sau khi gây tai nạn người này đã khẩn trương cấp cứu nạn nhân nhưng hậu quả nạn nhân chết vẫn xảy ra, sau vụ tai nạn người này đã bồi thường thiệt hại rất thỏa đáng cho gia đình. Do những nguyên nhân này, gia đình tôi đã nhiều lần gửi đơn bãi nại lên cơ quan có thẩm quyền nhưng người gây tai nạn vẫn tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tôi xin hỏi, cơ quan có thẩm quyền tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người gây tai nạn giao thông trong trường hợp này có đúng không?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Hình sự năm 2015;
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  1. Nội dung

Việc cơ quan có thẩm quyền tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự người gây tai nạn giao thông sau khi có đơn bãi nại từ người thân nạn nhân là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Ở đây chúng ta cần làm rõ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự người vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ gây hậu quả chết người, các trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, hậu quả pháp lý của việc rút đơn khởi tố theo yêu cầu bị hại, ý nghĩa pháp lý các hành vi của bị can/bị cáo sau hành vi vi phạm.

Cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự người vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ gây hậu quả chết người quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Các tội khởi tố theo yêu cầu bị hại là:

–  Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

–  Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,

–  Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội,

–  Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

–  Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính,

–  Điều 141. Tội hiếp dâm,

–  Điều 143. Tội cưỡng dâm,

–  Điều 155. Tội làm nhục người khác,

–  Điều 156. Tội vu khống

–  Điều 226.Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Như vậy, trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ.

Tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ không thuộc 10 tội nêu trên nên vụ án được khởi tố không theo yêu cầu bị hại. Việc bãi nại vụ án không làm ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng của vụ án.

Sau khi xảy ra tai nạn, nếu người gây tai nạn đã tự giác khẩn trương cấp cứu nạn nhân để giảm thiểu thiệt hại của vụ tai nạn thì có thể được coi là thuộc tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm a khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Sau vụ tai nạn người gây tai nạn đã tự nguyện thực hiện đầy đủ trách nhiệm dân sự, bồi thường các thiệt hại về vật chất và tinh thần do hành vi vi phạm của mình gây ra cho gia đình nạn nhân có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Vậy, vì tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ không thuộc 10 tội màvụ án được khởi tố không theo yêu cầu bị hại nên việc bãi nại của bị hại không làm ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng của vụ án. Các hành động của người gây tai nạn sau khi gây tai nạn chỉ có thể được xét đến là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Lỗi trong trách nhiệm dân sự

  1. Nội dung

Mặc dù, điều luật không dưa ra định nghĩa về lỗi nhưng trong khoa học pháp lý lỗi được hiểu là thái độ tâm lí chủ quan của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu. Pháp luật dân sự Việt Nam cũng giống với pháp luật dân sự của các nước Châu Âu lục địa khác như Đức, Pháp đều kế thừa Luật La Mã và coi lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán tức là người vi phạm có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi còn người có quyền chỉ phải chứng minh người có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ đã bao hàm cả yếu tố lỗi. Là một yếu tổ để xác định trách nhiệm bối thường. mức độ bổi thường trong một số trường hợp nên điều luật đã đưa ra khái niệm và hình thức lỗi làm cơ sở để xác định trong từng trường hợp nhất định. Theo nội dung điều luật. lỗi được phân thành hai loại là lỗi cổ ý và lỗi vô ý.

– Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệi hại cho người khác mà vần thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hai xảy ra.

– Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho răng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

– Trong dân sự, về nguyên tắc, việc phân biệt hình thức lỗi cố ý hay vô ý không có nhiều ý nghĩa. Nó chi có ý nghĩa trong những trường hợp ngoại lệ khi cần xác định trách nhiệm hoặc phạm vi bồi thường. Cụ thế, xác định được đúng hình thức và mức độ lỗi trong dân sự sẽ có ý nghĩa trong một số trường hợp sau:

(1) Xác định được căn cứ phát sinh trách nhiệm: Có những trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự nếu có lỗi cố ý ví dụ như khoản 4 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch có ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đai diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ” Hoặc khoản 2 Điều 231 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 232 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định bên chiếm hữu gia súc, gia cầm thất lạc phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm gia súc, gia cầm chết. Ngoài ra. Điều 577 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định khi người thực hiện công việc không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực hiện. Hoặc khoản 2 Điều 596 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường. Tương tự, khoản 4 thường thiệt hại trong trường hợp một người cố ý đưa người khác vào việc dùng chất kích thích gây thiệt hại cho người khác.

(2) Có ý nghĩa trong việc giảm mức bối thường: trong một số trường hợp người gây ra thiệt hại được giảm mức bồi thường nếu có lỗi vô ý. Ví dụ: khoàn 2 Điều 577 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận cóng việc, người đó có thể được giảm mức bôi thường”. Hoặc khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng ghi nhận “Người chịu trách nhiệm bôi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tội nhận hối lộ

Câu hỏi

Anh A là giám đốc công ty thẩm định giá X. Công ty X đang thẩm định giá tài sản của công ty Y nhằm làm tài sản thế chấp của công ty Y cho khoản nợ của công ty Y với ngân hàng Z. Anh A đã nhận số tiền trị giá 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) của công ty Y với lời nhờ vả công ty X sẽ thẩm định giá tài sản của công ty Y nhiều hơn giá trị thực để công ty Y có thể vay ngân hàng Z. Sau đó, anh A đã thực hiện thẩm định giá không đúng giá trị thực như lời nhờ vả của công ty Y. Sau đó, công ty Y vỡ nợ và không thể thanh toán khoản vay với ngân hàng Z. Ngân hàng Z tiến hành thu hổi tài sản thế chấp của công ty Y thì phát hiện ra tài sản được thu hồi có giá trị không đúng với giá trị được công ty X thẩm định. Thiệt hại với ngân hàng vì việc thẩm định giá không đúng là 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng). Biết công ty thẩm định giá X là công ty do tư nhân làm chủ. Tôi xin hỏi, anh A có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Hình sự năm 2015;

  1. Nội dung

Anh A bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Anh A đã thực hiện hành vi cấu thành tội nhận hối lộ và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Ở đây chúng ta cần làm rõ việc xử lý tội nhận hối lộ đối với người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực ngoài nhà nước, mặt khách quan của hành vi nhận hối lộ trong cấu thành tội phạm tội nhận hối lộ.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực ngoài nhà nước cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội nhận hối lộ như người có chức vụ, quyền hạn làm việc trong nhà nước.

Ở mặt khách quan của hành vi nhận hối lộ trong cấu thành tội phạm thì nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân mình hoặc cho người hoặc tổ chức mà mình quan tâm, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Trong trường hợp này anh A đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình trong công ty thẩm định giá X, và anh A đã trực tiếp nhận hối lộ từ công ty Y để thẩm định giá không đúng theo yêu cầu người đưa hối lộ. Như vậy, hành vi của anh A đã cấu thành hành vi khách quan tội nhận hối lộ. Hành vi thẩm định giá sai của anh A đa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là làm ngân hàng Z bị thiệt hại sáu tỷ đồng. Vậy hậu quả của hành vi của anh A thuộc quy định tại điểm b khoản 4 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 với hình phạt là phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Vậy, anh A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội nhận hối lộ. Hành vi của anh A đã cấu thành đầy đủ hành vi mặt khách quan của cấu thành tội phạm tội nhận hối lộ. Hình phạt cho tội nhận hối lộ gây hậu quả đăc biệt nghiêm trọng (Sáu tỷ đồng) là phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ.

  1. Nội dung

Trong chuyển giao quyền yêu cầu, việc cung cấp thông tin là rất quan trọng. Có được thông tin sẽ giúp cho bên thế quyền đánh giá được chính xác việc có tiếp nhận việc chuyển giao quyền yêu cầu hay không, đồng thời thống tin cũng giúp bên thế quyền đánh giá mức độ thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ… Chính vì vậy, Điều 366 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bên chuyển quyền phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết cho bên được chuyển quyền.

Trong quan hệ nghĩa vụ thì những thông tin gì được coi là cần thiết? Điều 366 Bộ luật Dân sự không quy định rõ nhưng dựa vào những nội dung được pháp luật quy định tại phân nghĩa vụ có thể nhận thấy những thông tin cần thiết là những thông tin có liên quan và ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ cũng như bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như đôi tượng, giá cả, địa điểm, thời hạn, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ…

Bên cạnh đó, bên chuyển quyền cũng phải có nghĩa vụ chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền. Giấy tờ có liên quan có thể bao gồm tất cả các loại giấy tờ bên chuyển quyền có được từ mối quan hệ với bên có nghĩa vụ như hợp đồng chính, hợp đồng bảo đảm, chứng minh thư, số hộ khẩu, hóa đơn, chứng từ…

Đây là một nghĩa vụ pháp lý nói chung và là một nghĩa vụ dân sự nói riêng cho nên nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đây đủ một trong những nội dung trên thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ dân sự và phải gánh chịu trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự có thể là buộc phải thực hiện nghĩa vụ noặc bối thường thiệt hại. Mặc dù, Điều 366 Bộ luật Dân sự không quy định nhưng đối chiếu với quy định chung về thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong trường hợp này bên thế quyền hoàn toàn có quyền yêu cầu bên chuyển quyền cung cấp thêm thông tin hoặc chuyển glao giấy tờ do bên chuyển quyền chưa thực hiện. Trong trường hợp bên chuyển quyền không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trên mà gây thiệt hại cho bên thế quyền thì phải bồi thường thiệt hại cho bên thế quyền theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp không được ủy quyền

  1. Căn cứ pháp lý
  • Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
  • Luật công chứng năm 2014;
  • Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
  • Luật đất đai năm 2013;
  • Luật tố tụng hành chính năm 2015;
  • Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
  • Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015;
  • Luật tổ chức chính quyền ở địa phương 2015;
  • Luật lý lịch tư pháp năm 2009;
  • Luật trưng mua trưng dụng tài sản năm 2008;
  • Luật thú y năm 2015;
  • Luật Doanh nghiệp năm 2014;
  • Luật kinh doanh bất động sản năm 2014;
  • Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015;
  • Luật Hộ tịch năm 2014;
  • Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm;
  • Quyết định 3814/QĐ-BTP ngày 07 tháng 12 năm 2012 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp công bố thủ tục hành chính sửa đổi trong lĩnh vực hộ tịch và chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp;
  1. Nội dung

Uỷ quyền được hiểu là cá nhân/tổ chức cho phép cá nhân/tổ chức khác có quyền đại diện mình quyết định, thực hiện một hành động pháp lý nào đó và vẫn phải chịu trách nhiệm đối với việc cho phép/uỷ quyền đó.

Ủy quyền là căn cứ làm phát sinh quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện, đồng thời nó cũng là cơ sở để người ủy quyền tiếp nhận các kết quả pháp lý do hoạt động ủy quyền mang lại.

Trên thực tế việc đại diện theo ủy quyền diễn ra rất phổ biến, các bên có thể thỏa thuận tiến hành giao dịch bằng nhiều hình thức, kể cả bằng miệng tuy nhiên đối với các trường hợp quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo hình thức đó mới có giá trị. Việc đại diện theo ủy quyền phổ biến và đa dạng hình thưc như vậy, tuy nhiên vẫn tồn tại một số trường hợp không được ủy quyền, đó là 21 trường hợp sau:

  1. Đăng ký kết hôn

Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt.

  1. Ly hôn

Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.

  1. Công chứng di chúc của mình

Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc và không được ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc

  1. Quyền, lợi ích đối lập với người ủy quyền tại cùng vụ việc

Cụ thể, nếu người được ủy quyền cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người ủy quyền mà quyền, lợi ích hợp pháp của người được ủy quyền đối lập với quyền, lợi ích của người ủy quyền.

  1. Đang được ủy quyền bởi một đương sự khác trong cùng vụ việc có quyền, lợi ích đối lập với người sẽ ủy quyền

Cụ thể, nếu người được ủy quyền đang là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một người khác (người đã ủy quyền) mà quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc (người sắp ủy quyền).

  1. Nhận tội thay mình

Theo tinh thần của Bộ luật hinh sự, thì việc quy định các chế tài xử lý là nhằm mục đích răn đe, giáo dục người có hành vi phạm tội. Do vậy, nếu như cho phép ủy quyền người khác nhận tội thay mình thì không thể hiện đúng bản chất, mục đích của việc ban hành Bộ luật hình sự.

  1. Các trường hợp không được ủy quyền trong tố tụng hình sự

– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra không được ủy quyền cho Điều tra viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

– Cấp trưởng, cấp phó cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân không được ủy quyền cho cán bộ điều tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Những trường hợp làm chết người không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Nội dung

Trong các trường hợp dưới đây thì hành vi làm chết người sẽ được loại trừ Trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS hiện hành:

  1. Làm chết người trong trường hợp chưa đủ 14 tuổi

Nếu chủ thể làm chết người trong trường hợp người này chưa đủ 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Sự kiện bất ngờ

Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

–  Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.

  1. Tình thế cấp thiết

– Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

– Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

–  Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

– Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ

Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên

Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật Hình sự.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trình tự, thủ tục đăng ký pháp nhân theo quy định của pháp luật.

  1. Nội dung tư vấn:

Việc thành lập pháp nhân được tiến hành dựa theo một trong ba trình tự, thủ tục sau đây:

Trình tự mệnh lệnh: pháp nhân được thành lập theo quyết định đơn hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Thủ tướng chính ohủ, Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh); Trong quyết định của pháp nhân, lĩnh vực hoạt động của pháp nhân; Trình tự thành lập này thường được áp dụng để thành lập các cơ quan nhà nước.

Trình tự cho phép: Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của các sáng lập viên, hội viên hoặc của các tổ chức; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của điều lệ, sự cần thiết tồn tại của tổ chức đó và cho phép thành lập. Trình tự này thường được áp dụng để thành lập các pháp nhân là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các quỹ từ thiện.

Trình tự công nhận: Pháp nhân được thành lập trên cơ sở sáng kiến của các cá nhân hoặc tổ chức; Cơ quan nhà nước kiểm tra tính hợp pháp theo trình tự, thủ tục đã quy định, trên cơ sở đó ra quyết định thành lâpn; Trình tự này thường được áp dụng để thành lập các hợp tác xã, các doanh nghiệp.

Các hoạt động cơ bản liên quan đến việc đăng ký pháp nhân bao gồm: đăng ký thành lập pháp nhân ( thủ tục đăng ký mà kết quả cho ra đời một pháp nhân mới), đăng ký thay đổi pháp nhân ( thủ tục này chỉ được thực hiện khi đã có pháp nhân và trong quá trình hoạt động, pháp nhân có thay đổi một số nội dung cần thiết cho phù hợp với tình hình thực tiễn của pháp nhân).

Việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai. Việc công bố thuộc về trách nhiệm của chính pháp nhân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật quy định đăng ký pháp nhân phải công bố công khai nhằm minh bạch hóa tư cách chủ thẻ của pháp nhân. Qua việc minh bạch đó sẽ phần nào ngăn ngừa trường hợp cá nhân giả danh pháp nhân lừa đảo hoặc trục lợi trong hoạt động trên thực tế.

Bên cạnh quy định của Bộ luật Dân sự, vấn đề thành lập pháp nhân là doanh nghiệp được quy định chi tiết, cụ thể trong Chương II Luật Doanh nnghiệp năm 2014, với các nội dung như: Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp; Hợp đồng trước đăng ký doanh nghiệp; Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp; Nội dung giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; Cấp giấy chứng nhân đăng ký doanh nghiệp…

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản đối với tài sản phải đăng ký sở hữu

Câu hỏi

A mua xe oto ở showroom của đại lý B. Hai bên đã thực hiện việc giao nhận tài sản và thanh toán tiền đầy đủ. Tuy nhiên, do A chưa xây xong gara oto nên A có thỏa thuận để xe oto ở showroom của đại lý B và được B đồng ý. B cũng thỏa thuận rõ với A nếu trong trường hợp xe để ở showroom của B mà xảy ra rủi ro dẫn đến thiệt hại cho xe củ B thì A phải tự chịu trách nhiệm. Sau 5 ngày kể từ ngày A và B thỏa thuận, showroom oto của B bị cháy do sét đánh gây chập điện dẫn đến oto của B bị thiêu rụi hoàn toàn. Tại thời điểm bị thiêu rụi, A vẫn chưa đi đăng ký sở hữu với chiếc xe oto. Trong trường hợp này, chủ thể nào phải chịu rủi ro đối với chiếc xe?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:
  • Bộ luật Dân sự năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn:

Trong trường hợp này, A được xác định phải chịu rủi ro đối với tài sản là chiếc xe.

Ở đây chúng ta cần làm rõ: khái niệm về rủi ro, cơ sở pháp luật về phân định trách nhiệm chịu rủi ro.

Rủi ro xảy ra đối với tài sản là những sự kiện khách quan tác động vào tài sản khiến cho tài sản mua bán bị mất mát, hư hỏng. Chỉ được xác định là rủi ro khi thiệt hại xảy ra không phải xuất phát từ hành vi con người. Trong trường hợp này, do việc sét đánh là hiện tượng thời tiết tự nhiên mà các bên không thể lường trước khi thỏa thuận nên đủ cơ sở để xác định việc sét đánh khiến chập điện gây cháy là hiện tượng khách quan. Việc phân định trách nhiệm chịu rủi ro trong hợp đồng mua bán là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa bên mua và bên bán khi tài sản bị mất mát, hư hỏng. Trách nhiệm chịu rủi ro giữa bên mua và bên bán đối với tài sản phải đăng ký sở hữu được xác định như sau:

Đối với tài sản phải đăng ký sở hữu thì việc phân định trách nhiệm chịu rủi ro giữa bên mua và bên bán không dựa trên thời điểm giao nhận tài sản mà dựa trên thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký sở hữu tài sản.

Thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản không phải đăng ký sở hữu và tài sản phải đăng ký sở hữu được xác định theo quy định tại Điều 441 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, nếu các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác thì vẫn ưu tiên áp dụng thỏa thuận giữa các bên hoặc quy dịnh trong luật chuyên nghành.

Vậy trong trương hợp này, vì A và B có thỏa thuận về vấn đề chịu rủi ro đối với tài sản nên áp dụng thỏa thuận này. Do đó, chủ thể phải chịu rủi ro được xác định là A.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com