Sự khác biệt cơ bản giữa vay tiền không có lãi suất và mượn tiền tài sản và cùng không có thỏa thuận về thời hạn trả

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2014;

     II. Nội dung

  1. Hợp đồng mượn tài sản

– Khái niệm hợp đồng mượn tài sản

Điều 494 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được.”

Quan hệ mượn tài sản được hình thành kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Sau khi các bên thỏa thuận xong nội dung cơ bản của hợp đồng nhưng chưa chuyển giao tài sản, không thể bắt buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ của họ.

Trong hợp đồng mượn tài sản, bên cho mượn chuyển giao tài sản của mình cho bên kia sử dụng trong một thời hạn theo thỏa thuận mà không nhận được sự đền bù nào từ bên mượn tài sản. Do vậy, vì lợi ích của bên mượn sản nên bên cho mượn tự giác tham gia hợp đồng mà không tính toán đến lợi ích kinh tế. Sau khi bên cho mượn đã đồng ý cho bên kia mượn tài sản nhưng vì một lí do nào đó họ không chuyển giao tài sản cho bên mượn thì không thể buộc bên có tài sản phải thực hiện lời hứa của mình. Vì vậy, hợp đồng mượn tài sản là một hợp đồng thực tế.

– Đối tượng của hợp đồng

Tất cả những tài sản không tiêu hao đều có thể là đối tượng của hợp đồng mượn tài sản.

Trong hợp đồng mượn tài sản, đối tượng của hợp đồng là một hoặc nhiều tài sản.

Khái niệm tài sản cần được hiểu cụ thể là vật có thực, chiếm hữu được thực tế, vật đó có thể sử dụng đem lại lợi ích cho người mượn. Đối tượng của hợp đồng phải là vật đặc định, vật không tiêu hao. Sau khi hết hạn của hợp đồng, bên mượn phải trả lại tài sản trong tình trạng ban đầu khi mượn. Nếu làm hư hỏng, mất mát thì phải bồi thường thiệt hại.

– Đặc điểm pháp lí của hợp đồng mượn tài sản

Hợp đồng mượn tài sản là hợp đồng không có đền bù. Bên mượn tài sản có quyền sử dụng tài sản của bên cho mượn mà không phải trả tiền sử dụng tài sản.

Hợp đồng mượn tài sản là hợp đồng đơn vụ. Bên cho mượn tài sản có quyền yêu cầu bên mượn trả lại tài sản mượn khi tới hạn hoặc mục đích mượn đã đạt được. Bên mượn có nghĩa vụ trả lại tài sản mượn theo yêu cầu của bên cho mượn.

Hợp đồng mượn tài sản là hợp đồng thực tế. Khi chuyển giao tài sản cho bên mượn là thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên

Đối tượng của hợp đồng mượn tài sản là vật đặc định không tiêu hao. Sau khi sử dụng tài sản mượn, bên mượn phải trả lại đúng tài sản đã mượn cho bên cho mượn. Nếu tài sản mượn bị mất, hư hỏng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bên mượn tài sản đó.

 

 

  1. Hợp đồng vay tài sản

– Khái niệm hợp đồng vay tài sản

Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”

– Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản không có lãi suất

Đây là hợp đồng đơn vụ. Xét theo nguyên tắc, hợp đồng vay tài sản là đơn vụ đối với những trường hợp vay không có lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải hoàn trả vật cùng loại tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản cho bên cho vay. Bên vay không có quyền đối với bên cho vay.

Hợp đồng vay là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù. Nếu hợp đồng vay không có lãi suất là hợp đồng không có đền bù.

Hợp đồng vay là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ bên cho vay sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản. Vì vậy, bên vay có toàn quyền đối với tài sản vay, trừ trường hợp vay có điều kiện sử dụng

– Đối tượng của hợp đồng vay tài sản

Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là 1 khoản tiền. Tuy nhiên trong thực tế đối tượng còn có thể là vàng, kim khí, đá quý hoặc 1 số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt tài sản vay. Khi hết hạn hợp đồng, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản vay hoặc số tiền đã vay

  1. Kết luận về sự khác biệt cơ bản giữa vay tiền không có lãi suất và mượn tiền không có lãi suất và cùng không có thỏa thuận về thời hạn trả

Sự khác biệt cơ bản giữa vay tiền không có lãi suất và mượn tiền không có lãi suất và cùng không có thỏa thuận về thời hạn trả là về quyền đòi lại tài sản cho vay/mượn:

  • Ở hợp đồng cho vay, theo quy định khoản 1 Điều` 469 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 469. Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn

  1. Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác…”

– Ở hợp đồng mượn tài sản, theo quy định khoản 1 Điều 499 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 499. Quyền của bên cho mượn tài sản

  1. Đòi lại tài sản ngay sau khi bên mượn đạt được mục đích nếu không có thỏa thuận về thời hạn mượn; nếu bên cho mượn có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng tài sản cho mượn thì được đòi lại tài sản đó mặc dù bên mượn chưa đạt được mục đích, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý…”

Như vậy, sự khác biệt cơ bản giữa vay tiền không có lãi suất và mượn tiền không có lãi suất và cùng không có thỏa thuận về thời hạn trả là về quyền đòi lại tài sản cho vay/mượn. Trong khi với hợp đồng vay, bên cho vay có quyền đòi lại tài sản cho vay bất kì lúc nào miễn là báo trước cho bên vay một thời hạn hợp lý thì với hợp đồng cho mượn, nếu bên mượn dùng tài sản mượn đúng mục đích thì bên cho mượn không thể đòi lại tài sản này, nếu không có căn cứ cho thấy bản thân có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng tài sản đó.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự do hành vi gây ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể. Bên có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật này về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 584 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

 

 

Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện và áp dụng vào vụ án này được phân tích như sau:

Có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.

Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quy định của pháp luật về đơn tố cáo nặc danh

     I. Cơ sở pháp lý

  • Luật Tố cáo năm 2014;

     II. Nội dung

Đơn tố cáo nặc danh vẫn có thể được xử lý nếu nội dung đơn tố cáo rõ ràng, có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để cơ quan có thẩm quyền có đủ cơ sở để điều tra xác minh,  giải quyết đơn tố cáo theo quy định của pháp luật.

  1. Quy định của pháp luật về xử lý đơn tố cáo nặc danh

Khi xử lý giải quyết đơn tố cáo nặc danh, tùy từng trường hợp, cơ quan tiếp nhận sẽ xử lý trong hai trường hợp quy định tại Điều 25 Luật Tố cáo năm 2018 sau đây:

+  Khi nhận được thông tin có nội dung tố cáo nhưng không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo sử dụng họ tên của người khác để tố cáo hoặc thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức quy định nêu trên thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không xử lý.

+  Trường hợp thông tin có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tiến hành việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tiến hành việc thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý.

2. Quy định của pháp luật về đơn tố cáo

Theo quy định tại Điều 22 Luật Tố cáo năm 2018 thì việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Đồng thời, tại Khoản 1 Điều 23 Luật này cũng nêu rõ nguyên tắc tố cáo bằng đơn:

“Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.

Người tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo.”

Trường hợp nhiều người cùng tố cáo về cùng một nội dung thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện viết đơn tố cáo hoặc ghi lại nội dung tố cáo bằng văn bản và yêu cầu những người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản.

Như vậy, theo quy định trên, nếu tố cáo bằng đơn thì người viết đơn tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

     II. Nội dung

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì có 2 cơ quan có thẩm quyền trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung:

  1. Viện kiểm sát

Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;

b) Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác;

c) Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can;

d) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Như vậy, nếu Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ bổ sung thì Cơ quan điều tra phải điều tra bổ sung. Kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung phải ghi rõ kết quả điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra mới thay thế.

  1. Tòa án

2.1 Trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải xem xét căn cứ của việc yêu cầu điều tra bổ sung và giải quyết như sau:

  • Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.

2.2 Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết;

  • Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.

Như vậy, nếu Tòa án ra quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thì tùy nội dung yêu cầu mà thẩm quyền điều tra thuộc về Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  1. Nội dung

Về công nhận và cho thi hành án, quyết định của nước ngoài có thể hiểu đó là một thủ tục tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài đó đã được xem xét và công nhận tính hiệu lực, nó sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi hành trên lãnh thổ của nước đã công nhận.

Thủ tục đặc biệt này nhằm đảm bảo giải quyết các xung đột về quyền tài phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài phán của mỗi quốc gia. Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 gồm các bước sau:

Tại Điều 433 và Điều 434 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về thủ tục nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự Tòa án nước ngoài tại Việt Nam như sau:

“Điều 433. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành

  1. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phải có các nội dung chính sau đây:

     a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại diện hợp pháp của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;

     b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam;

     c) Yêu cầu của người được thi hành; trường hợp bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài đã được thi hành một phần thì người được thi hành phải ghi rõ phần đã được thi hành và phần còn lại có yêu cầu công nhận và cho thi hành tiếp tại Việt Nam.

     2. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.”

 

 

“Điều 434. Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu

  1. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là giấy tờ, tài liệu được quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định cùng là thành viên. Trường hợp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước có Tòa án đã ra bản án, quyết định chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này thì kèm theo đơn yêu cầu phải có giấy tờ, tài liệu sau đây:

     a) Bản chính hoặc bản sao có chứng thực bản án, quyết định do Tòa án nước ngoài cấp;

     b) Văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những nội dung này;

     c) Văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận kết quả tống đạt hợp lệ bản án, quyết định đó cho người phải thi hành;

     d) Văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã được triệu tập hợp lệ trong trường hợp Tòa án nước ngoài ra bản án vắng mặt họ.

     2. Giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.”

Như vậy trường hợp của bạn muốn công nhận bản án dân sự nước ngoài tại Việt Nam thì phải làm như sau:

Cơ quan có thẩm quyền thực hiện, cách thức thực hiện:  Nộp hồ sơ tại Bộ Tư pháp

Thành phần hồ sơ bao gồm:

– Đơn yêu cầu công nhận: Đơn phải đảm bảo các nội dung quy định tại Điều 433;

– Bản sao hợp pháp bản án, quyết định của Toà án nước ngoài;

– Văn bản xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt Nam trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những điểm này;

– Văn bản xác nhận việc đã gửi cho người phải thi hành bản sao bản án, quyết định đó. Trường hợp người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó vắng mặt tại phiên tòa của Toà án nước ngoài thì phải có văn bản xác nhận người đó đã được triệu tập hợp lệ;

Đơn và các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản trong tố tụng

  1. Cơ sở pháp lý
  • Pháp lệnh ngày 28 tháng 2 năm 2012 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, phiên dịch trong tố tụng;
  1. Nội dung

Thủ tục nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản được quy định tại Điều 38 Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, phiên dịch trong tố tụng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2012, cụ thể như sau:

“Điều 38. Thủ tục nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản

  1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được thành lập hoặc nhận được quyết định yêu cầu định giá của Tòa án, Hội đồng định giá, tổ chức định giá tài sản phải thông báo cho Tòa án và người yêu cầu định giá tài sản biết để đến Tòa án nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản; thông báo phải nêu rõ số tiền, thời hạn và phương thức nộp tiền.
  2. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Hội đồng định giá, tổ chức định giá tài sản, Tòa án có trách nhiệm thông báo cho người yêu cầu định giá biết để đến Tòa án nộp tiền tạm ứng chi phí định giá.
  3. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều này, người yêu cầu định giá tài sản phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá, trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày.
  4. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thu tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản, Tòa án phải chuyển số tiền đó cho Hội đồng định giá, tổ chức định giá tài sản.”

Như vậy, người yêu cầu định giá tài sản có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản. Thông thường, thời hạn để người yêu cầu định giá tài sản thực hiện việc nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản là 10 ngày.

Sau 2 ngày làm việc, kể từ ngày thu tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản, Tòa án sẽ chuyển số tiền đó cho Hội đồng định giá và tổ chức định giá tài sản.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam.

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  1. Nội dung

Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam là một phần quy định của tư pháp quốc tế Việt Nam. Tư pháp quốc tế Việt Nam có đối tượng điều chỉnh là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài và quan hệ tố tụng dân sự quốc tế; có hai phương pháp điều chỉnh cơ bản là phương pháp thực chất (sử dụng quy phạm thực chất) và phương pháp xung đột (sử dụng quy phạm xung đột).

Quy phạm thực chất là quy phạm trực tiếp quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên, hình thức, biện pháp chế tài cụ thể…

Quy phạm xung đột là quy phạm gián tiếp, đưa ra nguyên tắc chung trong việc xác định pháp luật áp dụng giải quyết một quan hệ/một tình huống cụ thể.

Việc quy định thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam đều sử dụng các quy phạm xung đột (quy phạm xung đột một chiều). Quy phạm xung đột là loại quy phạm đặc trưng của tư pháp quốc tế. Trong các quy định khác nhau trong quy phạm xung đột để giải quyết tranh chấp trong quan hệ, tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng các hệ thuộc luật khác nhau trong từng quy phạm:

  • Tranh chấp tài sản có liên quan đến bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam thì thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Trong quy phạm này, hệ thuộc luật được sử dụng là hệ thuộc luật tòa án – là pháp luật của nước có tòa án thẩm quyền. Tòa án có thẩm quyền khi giải quyết vụ việc chỉ áp dụng pháp luật nước mình.
  • Tranh chấp trong ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam thì thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Trong quy phạm này, hệ thuộc luật được sử dụng là hệ thuộc luật nhân thân- thuộc hệ thuộc luật mệnh lệnh, là hệ thuộc giải quyết xung đột thông qua dấu hiệu quốc tịch hoặc nơi cư trú của đương sự.
  • Tranh chấp dân sự khác mà các bên được lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các bên đồng ý lựa chọn Tòa án Việt Nam thì việc giải quyết tranh chấp đó thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Trong quy phạm này, hệ thuộc luật được sử dụng là hệ thuộc luật lựa chọn- là hệ thuộc luật tùy nghi mà pháp luật cho phép các bên tham gia các quan hệ đã được lựa chọn hệ thống pháp luật để áp dụng.

Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 470 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, theo đó:

     “1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam:

     a) Vụ án dân sự đó có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam;

     b) Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam;

     c) Vụ án dân sự khác mà các bên được lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các bên đồng ý lựa chọn Tòa án Việt Nam.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Việc thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm cho nghĩa vụ hình thành trong tương lai

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Dân sự năm 2005;
  • Luật Đất đai năm 2003;
  1. Nội dung

Được phép thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm cho nghĩa vụ hình thành trong tương lai.

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về việc làm rõ phạm vi nghĩa vụ bảo đảm, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, quy định về sử dụng quyền sử dụng đất để làm tài sản bảo đảm và khả năng sử dụng đất ở do nhận chuyển nhượng làm tài sản bảo đảm giao dịch dân sự.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 319 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là:

“2. Các bên được thoả thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, kể cả nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.”

Căn cứ vào đây ta thấy nghĩa vụ hình thành trong tương lai thuộc phạm vi nghĩa vụ bảo đảm nên theo quy định trên thì nghĩa vụ đó hoàn toàn có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm để thực hiện.

Theo điểm b khoản 1 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

“Điều 318. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

b) Thế chấp tài sản;…”

Như vậy, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 218 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì thế chấp tài sản là 1 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

 

 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 322 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

“2. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.”

Như vậy, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai.

Xét quy định tại Điều 35 Luật Đất đai năm 2003 thì đất ở không thuộc các trường hợp cho thuê đất, nên:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 113 Luật Đất đai năm 2003 thì:

“Điều 113. Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê

Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

7. Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh;…”

Như vậy, quyền sử dụng đất ở do nhận chuyển nhượng có thể là tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh.

Vậy, có thể thế chấp quyền sử dụng đất ở do nhận chuyển nhượng để bảo đảm cho nghĩa vụ hình thành trong tương lai nếu chủ thể quyền sử dụng đất và hình thức sử dụng đất được Luật Đất đai năm 2003 cho phép thể chấp quyền sử dụng đất.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thủ tục giám định lại trong tố tụng hình sự

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  1. Nội dung

Trong trường hợp nếu thấy kết luận giám định chưa chính xác, cơ quan trưng cầu giám định hoặc người tham gia tố tụng đề nghị cơ quan trưng cầu giám định thực hiện việc giám định lại theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

“Điều 211. Giám định lại

  1. Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
  2. Cơ quan trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người đề nghị giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do…”

Việc đề nghị cơ quan trưng cầu giám định thực hiện việc giám định lại sau khi có kết luận giám định lần đầu là quyền được ghi nhận tại khoản 3 Điều 214 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

“Điều 214. Quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận giám định

  1. Bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định; đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại. Trường hợp họ trình bày trực tiếp thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải lập biên bản…”

Theo quy định tại khoản 4 Điều 214 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì khi có đề nghị giám định lại từ người có quyền và nghĩa vụ liên quan, trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án không chấp nhận đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản và nêu rõ lý do.

“Điều 214. Quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận giám định

  1. Trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án không chấp nhận đề nghị của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác thì phải thông báo cho người đề nghị bằng văn bản và nêu rõ lý do.”

 

 

Ở giai đoạn xét xử, tại phiên tòa bạn hoặc con trai bạn có quyền yêu cầu giám định lại thương tật, và Hội đồng xét xử lúc này sẽ ra quyết định giám định lại hay không theo quy định Điều 316 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

“Điều 316. Hỏi người giám định, người định giá tài sản

  1. Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa yêu cầu người giám định, người định giá tài sản trình bày kết luận của mình về vấn đề được giám định, định giá tài sản. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ để đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản.
  2. Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.
  3. Trường hợp người giám định, người định giá tài sản không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản.
  4. Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại tài sản.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  1. Nội dung tư vấn

Khoản 2 Điều 464 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

“Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:

     a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài;

     b) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;

     c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”

Như vậy, phạm vi của vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm vụ án dân sự (tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) và việc dân sự (yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) và có yếu tố nước ngoài.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp dân sự sau:

“Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện

  1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

     a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;

     b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;

     c) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này…”

 

 

Theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì các tranh chấp dân sự có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, ngoại lệ là một số tranh chấp ở khu vực biên giới quy định tại khoản 4 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết vẫn có thể thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện.

“Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện

  1. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này…”

Theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài mà đương sự, tài sản của vụ án đều ở Việt Nam và không cần ủy thác tư pháp trong toàn bộ vụ án thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ không bị loại trừ.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Dân sự năm 2005;
  • Luật Đất đai năm 2003;
  • Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 do Chính phủ ban hành hướng dẫn thi hành Luật Đất đai;
  1. Nội dung

Theo quy định tại Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

“Điều 361. Bảo lãnh

Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”

Như vậy, việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ là bảo lãnh.

Theo điểm e khoản 1 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

“Điều 318. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

     e) Bảo lãnh;…”

Như vậy, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 218 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì thế chấp tài sản là 1 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 322 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:

“2. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.”

Như vậy, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai.

 

 

Xét quy định tại Điều 35 Luật Đất đai năm 2003 thì đất ở không thuộc các trường hợp cho thuê đất, nên:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 113 Luật Đất đai năm 2003 thì:

“Điều 113. Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê

Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

…7. Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh;…”

Như vậy, quyền sử dụng đất ở do nhận chuyển nhượng có thể là tài sản bảo đảm để bảo lãnh tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 64 Nghị định 181/2004/NĐ-CP thì bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất là giao dịch phải đăng ký.

Theo quy định tại khoản 1,2 Điều 153 Nghị định 181/2004/NĐ-CP thì trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất như sau:

“Điều 153. Trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất

  1. Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày ký kết hợp đồng tín dụng, các bên tham gia thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:

     a) Hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất;

     b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).

     2. Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện đăng ký thế chấp, đăng ký bảo lãnh vào hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận…”

Vậy, người thứ ba có thể  cam kết với người có quyền về việc sẽ thực hiện thay nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Có thai liên tục để được hoãn hình phạt tù có được không?

Theo quy định của pháp luật hiện nay thì phụ nữ mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn chấp hành hình phạt tù. Vậy tôi có thắc mắc không biết có trường hợp liên tục mang thai để hoãn mãi được không? Hay có giới hạn?

  1. Cơ sở pháp lý
  • Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
  • Giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ Số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 do Tòa án nhân dân tối cao ban hành;
  1. Nội dung

Việc liên tục mang thai để hoãn chấp hành hình phạt tù, dù có mục đích là để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù thì vẫn được hoãn chấp hành hình phạt tù.

Ở đây chúng ta cần làm rõ quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù và giải đáp về nghiệp vụ về việc liên tục mang thai để hoãn chấp hành hình phạt.

Quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù

Về hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 37 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:

“Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt tù

Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

     a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

     b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

     c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

     d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm”

 

 

Như vậy, Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Giải đáp về việc liên tục có thai để được hoãn chấp hành hình phạt tù

Về vấn đề, có thể liên tục mang thai để hoãn chấp hành hình phạt tù được không, Căn cứ theo Giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ Số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017, Tòa án nhân dân tối cao có quan điểm như sau:

“4. Đối với người bị kết án là phụ nữ mà sau khi kết án họ liên tục có thai và sinh con để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù thì Tòa án có thể cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù không?

Nếu người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không”

Như vậy, có thể mang thai và sinh con liên tục để hoãn chấp hành hình phạt tù mà không có giới hạn mặc dù mục đích để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com