Câu hỏi
“Ngày 28/9/2016 ông A có nhận chuyển nhượng của ông B diện tích đất 696m2 thuộc thửa số 567, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Thôn Đ C, xã S L, thị xã S T với giá chuyển nhượng là 690.000.000đồng. Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng thì ông A có đặt cọc cho ông B 20.000.000 đồng và có viết giấy tay đặt cọc.
Đến ngày 12/10/2016 ông A và ông B có viết giấy tay sang nhượng diện tích đất trên với số tiền là 150.000.000 đồng nhằm mục đích trốn thuế. Sau đó ông A và ông B đến Văn phòng công chứng H T để lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định, tại hợp đồng này chỉ ghi giá chuyển nhượng là 50.000.000 đồng nhằm mục đích trốn thuế, cùng ngày 12/10/2016 ông A và ông B đã nộp toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng lên bộ phận một cửa của Ủy ban nhân dân thị xã S T, phiếu hẹn đến ngày 03/11/2016 sẽ trả kết quả, phiếu hẹn này ông B giữ bản chính.
Ngày 17/10/2016 thì ông B đến bộ phận một cửa rút toàn bộ hồ sơ chuyển nhượng đất và tuyên bố không chuyển nhượng cho ông A nữa nên ông A khởi kiện yêu cầu ông B tiếp tục duy trì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập 12/10/2016 giữa ông A và ông B.”
Tôi xin hỏi, nếu Tòa án chứng minh được giao dịch giữa 2 ông A và B được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A có được Tòa án chấp nhận không?
- Cơ sở pháp lý
- Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Nội dung
Nếu Tòa án chứng minh được giao dịch giữa 2 ông A và B được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A sẽ không được Tòa án chấp nhận.
Ở đây chúng ta cần làm rõ, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, hậu qua bị Tòa án xác định là hợp đồng vô hiệu.
Theo điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 về Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu; còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
Việc lập một thỏa thuận khác nhằm che giấu hợp đồng chuyển nhượng là hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Một khi giao dịch giả tạo bị tuyên vô hiệu, giao dịch bị che giấu vẫn còn hiệu lực và các bên liên quan vẫn thực hiện theo đúng quy định pháp luật, tức là kê khai đúng với giá trị thực tế của hợp đồng và thực hiện đóng thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật, và các bên phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ dựa trên hợp đồng thực.
Khi hợp đồng bị che giấu bị vô hiệu theo quy định pháp luật thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ hợp đồng và theo quy định tại:
“Điều 427. Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng
1….
- Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.
Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.”
Vậy hợp đồng đã bị Tòa án chứng minh được giao dịch được xác lập nhằm trốn thuế thì yêu cầu của ông A sẽ không được Tòa án chấp nhận do hợp đồng đó sẽ bị Tòa án xác định là vô hiệu do giả tạo.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com