Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về quy định tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân.
Kính gửi Luật sư, tôi có câu hỏi này muốn được hỏi xin ý kiến tư vấn của các luật sư ạ. Hiện tại tôi có miếng đất muốn bán nhưng chưa biết rõ về thủ tục mua bán như thế nào. Cụ thể, miếng đất này do vợ chồng cùng góp tiền để đi mua đất, nhưng sổ đỏ đứng tên một mình chồng.
Bây giờ tôi muốn bán thì có phải có chữ ký của vợ không? sổ cấp tháng 6/2018, cấp sau khi kết hôn. Vậy các con của tôi có phải ký xác nhận đồng ý bán thì mới bán được không? Chúng tôi đang chuẩn bị ký hợp đồng đặt cọc, để đảm bảo chắc chắn tôi muốn đi công chứng hợp đồng đặt cọc này thì văn phòng công chứng có công chứng hợp đồng này không ?. Tôi rất mong sớm nhận được câu trả lời từ phía luật sư ạ. Tôi xin cảm ơn.!
Luật sư tư vấn:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
- Cơ sở pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 19 tháng 06 năm 2014.
Luật công chứng Số 53/2014/QH13 được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày 20 tháng 06 năm 2014.
- Nội dung tư vấn:
Thứ nhất, về chủ thể có quyền ký kết hợp đồng mua bán. Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản chung của vợ chồng, cụ thể:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Luật có quy định, Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Đối chiếu với trường hợp của anh, tài sản là miếng đất này là tài sản do anh chị cùng tạo lập (góp tiền mua đất ) trong thời kỳ hôn nhân nên được xem là tài sản chung của vợ chồng. Nên xét về mặt chủ thể có quyền sử dụng hợp pháp được pháp luật công nhận là của cả vợ và chồng.
Thứ hai, về việc đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Luật hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định rõ tại điều 34 về đăng ký quyền sở hữu đói với tài sản chung:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng kýquyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Về nguyên tắc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì trên giấy chứng nhận phải ghi tên cả hai vợ chồng. Chỉ trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận để cho một bên đứng tên thì giấy chứng nhận sẽ ghi tên một người nhưng bản chất vẫn là sở hữu chung nên khi mua bán vẫn phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng mới hợp pháp. Trường hợp của anh cũng tương tự, tài sản là đất chung nhưng chỉ ghi tên chồng nên khi mua bán, vợ anh vẫn phải ký vào hợp đồng hoặc ủy quyền cho anh đứng ra mua bán diện tích đất này.
Còn về phía các con, như đã phân tích ở trên, chủ thể nào được pháp luật công nhận quyền sử dụng thì có quyền mua bán, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật đất đai. Nếu diện tích đất trên được công nhận quyền sử dụng cho 2 vợ chồng chứ không phải đất cấp cho hộ gia đình thì các con sẽ không có quyền đối với tài sản này và không phải xin chữ ký của các con mới bán được.
Thứ ba, về việc công chứng hợp đồng đặt cọc mua bán đất, quy định về công chứng theo luật công chứng 2014 thì vai trò của công chứng viên là chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch). Hợp đồng đặt cọc mua bán đất cũng là một dạng hợp đồng dân sự nên văn phòng công chứng vẫn chứng nhận tính xác thực của loại hợp đồng này. Nên để đảm bảo, anh có thể thỏa thuận đi công chứng hợp đồng đặt cọc.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email : luathiepthanh@gmail.com
Trân Trọng