Trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi trong nước tại Việt Nam

Các thủ tục hành chính thường xuyên gây khó khăn cho người dân. Nguyên nhân chủ yếu là do người dân chưa hiểu rõ về quy trình, trình tự, thủ tục cũng như hồ sơ giấy tờ cần thiết cho nên cán bộ hành chính buộc phải trả lại hồ sơ, gây tốn kém chi phí và thời gian. Việc nhân nuôi con nuôi ở trong nước hiện nay diễn ra khá phổ biến, tình trạng khó khăn trong làm thủ tục nhận nuôi con nuôi luôn là những rào cản cho những cặp vợ chồng muốn nhận nuôi con. Bài viết này trình bày cụ thể về trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi trong nước tại Việt Nam giúp cho quá trình nhận nuôi con nuôi của các cặp vợ chồng đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng hơn.

Khi công dân Việt Nam có nguyện vọng, mong muốn và đủ các điều kiện để nhận con nuôi theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi và chưa tìm được ai là trẻ em dưới 16 tuổi hoặc từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi trong một số trường hợp đặc biệt để nhận làm con nuôi hợp pháp thì tiến hành thủ tục đăng ký nhu cầu nhận con nuôi  tại Sở Tư pháp nơi người đó thường trú hợp pháp; nếu trong trường hợp có trẻ em đáp ứng đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi theo quy định thì Sở Tư pháp nơi thường trú giới thiệu đến Ủy ban nhân dân cấp xã, phường nơi trẻ em được nhận làm con nuôi đó thường trú để xác minh,xem xét có phù hợp để giải quyết.

Sau đây, Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi trong nước tại Việt Nam

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010;

  1. Luật sư tư vấn:

Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định về vấn đề Trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi trong nước tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, về điều kiện để người đăng kí nuôi con nuôi được quy định tại khoản 1,2,3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010 như sau:

– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân đã thành niên không bị mặc bệnh tâm thần hay các bệnh hạn chế khả năn nhận thức, có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự điều này giúp cho việc chăm sóc con nuôi được đảm bảo tốt nhất về việc điều kiện kinh tế, học tập và giáo dục.

– Có điều kiện về sức khỏe tốt có giấy khám sức khỏe để xác định về sức khỏe đảm bảo khả năng chăm sóc cho con nuôi, bên cạnh đó người nhận nuôi cũng cần có kinh tế ổn định thu nhập đảm bảo, hơn nữa việc có chỗ ở nơi sinh sống đăng ký thường trú, tạm trú và môi trường sống lạnh mạnh dễ dàng cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

– Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

– Có tư cách đạo đức tốt như yêu thương trẻ em, biết giúp đỡ mọi người, trung thực, chân thành……có trình độ văn hóa;

– Người nhận nuôi con không thuộc các trường hợp như sau:

+ Người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên ví dụ: một số quyền như các quyền về chăm sóc, nuôi dưỡng, giám hộ đại diện…..

+ Người đang chấp hành hình phạt tù về các tội danh đã được quy định của Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+ Người đã chấp hành xong hình phạt tù về một trong các tội: Thứ nhất các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, ví dụ: Tội giết người, Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát, Tội đe dọa giết người, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ; Thứ hai tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình theo Điều 185 Bộ luật hình sự 2015; Thứ ba dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật theo Điều 325 Bộ luật hình sự 2015; Thứ tư mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015.

+ Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

Thứ hai, hồ sơ của người nhận nuôi con nuôi được quy định tại Điều 17 Luật Nuôi con nuôi gồm:

– Đơn xin nhận con nuôi được mẫu đơn này được quy định tại Thông tư 24/2014/TT-BTP.

– Phiếu lý lịch tư pháp số 1, số 2 được cấp tại Sở tư pháp tỉnh nơi đăng ký thường trú của người xin cấp phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Điều 45, Điều 46 Luật lý lịch tư pháp năm 2009.

– Bản sao Hộ chiếu, Thẻ căn cước công dân Giấy chứng minh nhân dân;

– Để xác nhận điều kiện về sức khỏe người nhận nuôi cần cung cấp Giấy khám sức khỏe theo quy định được bên cơ sở y tế cấp huyện trở lên cấp và văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình người nhận nuôi, tình trạng chỗ ở có đủ điều kiện để ăn ở sinh hoạt, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi;

– Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan ủy ban cấp xã phường nơi cư trú của người nhận nuôi con xác nhận.

Thứ ba, hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước được quy định tại Điều 18 Luật Nuôi con nuôi trong nước gồm có:

– Giấy khai sinh của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi;

– Hai bức ảnh toàn thân của trẻ được giới thiệu làm con nuôi, phông nền xanh nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng để đảm bảo hình ảnh mới nhất của bé.

– Một giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp về tình trang sức khỏe của trẻ;

– Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng;

– Văn bản xác nhận do Ủy ban nhân dân xã, phường hoặc Cơ quan công an cấp xã, phường tại nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi.

– Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em đối với trẻ em mồ côi hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố theo quy định Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 393 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi.

– Quyết định của Cơ quan Tòa án tuyên theo quy định tại Điều 68 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 389 Bộ luật tố tụn dân sự 2015 về tuyên người mất tích đối với bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích

– Quyết định của Tòa án tuyên theo quy định Điều 22 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 378 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về việc bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự;

Sau khi có đầy đủ các điều kiện trên thì cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hợp pháp lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; hoặc cơ sở nuôi dưỡng lập trẻ em sẽ lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.

Thứ tư, về thẩm quyền theo quy định pháp luật để đăng kí nuôi con nuôi được quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Nuôi con nuôi 2010 như sau:

Để thực hiện bất cứ một thủ tục pháp lý nào làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của một cá nhân thì các bên đều phải thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được xét duyệt. Việc nhận nuôi con nuôi không chỉ phải thông qua giữa bên cha mẹ đẻ của bé và người nhận nuôi mà cần phải đăng ký nuôi con nuôi trong nước tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.

Trong trường hợp đặc biệt như cha dượng hoặc mẹ kế thực hiện việc nhận con riêng của vợ hoặc chồng để làm con nuôi khi xác lập mối quan hệ hôn nhân; cô ruột, cậu ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thống nhất giữa hai bên là người nhận con nuôi cùng với cha mẹ đẻ của trẻ hoặc người giám hộ hợp pháp theo quy định Bộ luật dân sự của trẻ em để được nhận con nuôi theo quy định, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nhận con nuôi hợp pháp để tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định pháp luật.

Trong trường hợp trẻ em dưới 16 tuổi hoặc từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi trong một số trường hợp đặc biệt bị bỏ rơi mà chưa được chuyển vào các cơ sở nuôi dưỡng để được nhận làm con nuôi theo quy định, thì cơ quan Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn tại nơi trẻ em bị bỏ rơi sẽ tiến hành lập biên bản xác minh, xác nhận về tình trạng trẻ em bị bỏ rơi để có thể thực hiện đăng ký  về việc nuôi con nuôi theo quy định; trong trường hợp có trẻ em tại cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.

Thứ năm, về thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi quy định tại Điều 19 Luật Nuôi con nuôi:

– Khi người muốn nhận con nuôi làm thủ tục phải nộp đầy đủ hồ sơ của mình như đã phân tích ở trên và hồ sơ của người được giới thiệu theo quy định nêu trên mục thứ 3 để làm con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú.

– Thời hạn để thực hiện việc cho nhận con nuôi là 30 ngày kể cả ngày thứ bảy chủ nhật và ngày lễ, tính từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Việc cho nhận con nuôi cũng một phần nào lựa chọn gia đình thay thế nhằm tạo cho trẻ em có 1 gia đình hạnh phúc trong cả đời sống vật chất và tinh thần. Tuy nhiên cũng có những người lợi dụng việc cho nhận con nuôi để thực hiện hành vi trái pháp luật, để tránh và hạn chế những điều đó thì quy định của pháp luật nuôi con nuôi cũng đã nêu rõ tất cả các điều kiện trình tư, thủ tục và cơ quan có thẩm quyền xem xét, xác nhận để xác nhận việc cho nhận con nuôi hợp pháp đảm bảo quyền lợi cho trẻ em được nhận nuôi và gia đình nhận nuôi trẻ.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về Trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi trong nước tại Việt Nam. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Cách tính nghỉ phép trong từng tháng theo quy định mới 2019?

Người lao động có được nghỉ 1 ngày phép năm vào hàng tháng hay phải kết thúc năm tài chính mới được nghỉ phép năm theo quy định mới nhất của luật lao động hiện nay? Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Cách tính nghỉ phép trong từng tháng theo quy định

Câu hỏi khách hàng:

Hiện tại, em mới phụ trách mảng Nhân sự của công ty em và em có một thắc mắc liên quan đến việc nghỉ phép mong được Luật sư giải đáp.

1/ người lao động có dưới 12 tháng làm việc: số ngày phép được hưởng theo thời gian làm việc thực tế. Vậy tháng đầu tiên NLĐ chỉ được nghỉ 1 ngày phép, từ các tháng sau số ngày phép mới được tích lũy lên. Cách tính như vậy có đúng không? Em thấy trong Luật LĐ không quy định việc này và nếu tính như vậy rất bất lợi cho người lao động. Trường hợp các công ty cho phép NLĐ tự sắp xếp lịch nghỉ (được tiêu trước phép). Nếu NLĐ bắt đầu ký HĐ chính thức từ tháng 3 năm 2016 thì năm 2016 họ sẽ có 10 ngày phép.Tuy nhiên, chưa hết năm – đến tháng 10 người đó đã tiêu hết 10 ngày phép và xin nghỉ việc. Tính ra, người đó chỉ làm việc thực tế 8 tháng và được hưởng 8 ngày phép. Vậy số ngày phép nghỉ vượt quá (2 ngày) sẽ bị truy thu như thế nào? Có ảnh hưởng gì khi làm việc với cơ quan thuế không?

2/ NLĐ có đủ 12 tháng làm việc: Quy định về việc được tiêu trước phép hay không có giống trường hợp trên không? Hay trường hợp này nghiễm nhiên được tự sắp xếp lịch nghỉ và tiêu trước phép? (Tháng 1 năm 2016 họ có thể nghỉ 3 ngày phép nhưng các tháng sau không nghỉ để bù lại). Rất mong Công ty giải đáp câu hỏi này cho em trong thời gian sớm nhất.

Em xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Lao động 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012;

– Nghị định 45/2013/NĐ_CP quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định tại Điều 111 Bộ Luật Lao động 2012:

“Điều 111. Nghỉ hằng năm

  1. Người lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:
  2. a) 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;
  3. b) 14 ngày làm việc đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành hoặc lao động chưa thành niên hoặc lao động là người khuyết tật;
  4. c) 16 ngày làm việc đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
  5. Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động.
  6. Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.
  7. Khi nghỉ hằng năm, nếu người lao động đi bằng các phương tiện đường bộ, đường sắt, đường thủy mà số ngày đi đường cả đi và về trên 02 ngày thì từ ngày thứ 03 trở đi được tính thêm thời gian đi đường ngoài ngày nghỉ hằng năm và chỉ được tính cho 01 lần nghỉ trong năm.”

Nghị định 45/2013/NĐ_CP quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động quy định tại điều 7 như sau: Trong trường hợp người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng thì số ngày nghỉ hàng năm đối với trường hợp làm việc không đủ năm được tính như sau: Lấy số ngày nghỉ hàng năm cộng với số ngày nghỉ tăng thêm theo thâm niên (nếu có), chia cho 12 tháng, nhân với số tháng làm việc thực tế trong năm để tính thành số ngày được nghỉ hàng năm; kết quả phép tính lấy tròn số hàng đơn vị, nếu phần thập phân lớn hơn hoặc bằng 0,5 thì làm tròn lên 1 đơn vị. Theo đó, trường hợp người lao động có dưới 12 tháng làm việc thì thời gian nghỉ hằng năm được tính theo tỷ lệ tương ứng với số thời gian làm việc. Trường hợp không nghỉ thì được thanh toán bằng tiền.

Như vậy, cách tình thời gian nghỉ hằng năm như bạn nói là đúng, tuy nhiên bạn cần lưu ý, trong trường hợp này bạn còn chưa tính đến số ngày nghỉ hằng năm tăng thêm thâm niên.

Căn cứ vào quy định khoản 2 và 3 Điều 111 BLLĐ, công ty có thể sắp xếp lịch nghỉ phép cho NLĐ có tham khảo ý kiến của NLĐ và pahỉ thông báo cho NLĐ. Nếu số ngày nghỉ phép của NLĐ vượt quá số ngày được phép nghỉ hằng năm mà NLĐ nghỉ việc thì sẽ coi như NLĐ đã tạm ứng số ngày nghỉ trước mà không trả được và phải thanh toán bằng tiền cho NSDLĐ. Pháp luật không có quy định cụ thể về vấn đề này, bạn cần xem xét các nội dung trong hợp đồng giữa công ty với NLĐ hoặc điều lệ công ty quy định về vấn đề này. Vấn đề này không được các văn bản pháp luật về thuế quy định.

Trong trường hợp người lao động làm đủ 12 tháng, việc sắp xếp lịch nghỉ cho người lao động được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 111 BLLĐ và vấn đề tiêu trước phép hay không phụ thuộc và điều lệ công ty và thỏa thuận với NLĐ.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Bị cáo vụ AVG khai mắc sai phạm vì ‘tin cấp trên’

HÀ NỘI – 11 cựu lãnh đạo Bộ Thông tin Truyền thông, MobiFone khai thời điểm mua AVG đều nghĩ ‘làm đúng thẩm quyền’ do tin vào chỉ đạo của cấp trên.

Phiên toà sơ thẩm xét xử 14 bị cáo liên quan đến sai phạm trong dự án MobiFone chi 8.900 tỷ đồng mua 95% cổ phần Công ty Nghe nhìn toàn cầu AVG để lấn sân kinh doanh truyền hình gây thiệt hại cho nhà nước 6.600 tỷ đồng đã khép lại ngày làm việc thứ ba tại TAND Hà Nội.

Trong 14 bị cáo có 11 người từng là lãnh đạo cấp cao Bộ Thông tin Truyền thông, MobiFone, bị truy tố vì liên quan trực tiếp, chỉ đạo, thực hiện việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp bằng tiền nhà nước khi chưa có quyết định phê duyệt của Thủ tướng.

Ba ngày bị thẩm vấn, 11 người cùng cho rằng thời điểm thực hiện dự án, họ nhận thức đã “làm đúng chức trách, thẩm quyền”. Trước toà, cựu bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son khai đã nhận được thông báo của từ Văn phòng Chính phủ về ý kiến của Thủ tướng chấp thuận chủ trương cho MobiFone mua AVG.

Khi bị thẩm phán hỏi: “Quan trọng nhất là Thủ tướng đã ra quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư chưa?”, ông Son đáp: “Lúc đó, chúng tôi hiểu Thủ tướng đã đồng ý. Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng đề nghị Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư”.

Với suy nghĩ đó, ông Son đã chỉ đạo thứ trưởng Trương Minh Tuấn ký quyết định 236 phê duyệt cho MobiFone đầu tư vào AVG. Bác bỏ lập luận này, HĐXX cho rằng, một thông báo không thể “coi như là” quyết định.

Ông Son giải thích trong thông báo đó đã chứa đựng các yếu tố pháp luật, đó không phải là thông báo bình thường. Cựu bộ trưởng “nghĩ rằng” Thủ tướng đã chấp thuận chủ trương cho MobiFone mua AVG để đầu tư dịch vụ truyền hình.

Trước câu trả lời này, thẩm phán Trương Việt Toàn nhắc: “Bị cáo nên nhớ vai trò của bị cáo là bộ trưởng. Đã là bộ trưởng thì không thể nhầm lẫn về những cái mang tính tối thiểu như vậy. Không thể coi thông báo là một quyết định, không thể thiếu quyết định mà vẫn yêu cầu ông Tuấn ký quyết định phê duyệt dự án”.

Cựu bộ trưởng Son giải thích thêm “ở thời điểm phê duyệt, chúng tôi nghĩ chúng tôi đã làm đúng theo quy định rồi”. Thẩm phán Toàn nói: “Ai cũng nói tôi không hiểu gì cả, nhưng ai cũng chễnh chệ ngồi ở ghế Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng thành viên. Không hiểu gì thì làm Bộ trưởng làm gì?”.

Cựu bộ trưởng Trương Minh Tuấn trình bày không được giao phụ trách dự án MobiFone mua AVG nhưng lại bị ông Son giao ký công văn 44 gửi Bộ Công an đưa danh mục dự án vào tài liệu “Mật”, ký báo cáo thẩm định, ký quyết định 236 đồng ý cho MobiFone đầu tư vào AVG… Thời điểm đó, ông không biết đã làm sai, “mãi sau này mới biết”.

Cựu chủ tịch MobiFone Lê Nam Trà khai khi Bộ ban hành quyết định 236, lãnh đạo MobiFone hiểu Bộ “được phép” làm vậy và “làm đúng” nên đã thực hiện theo chỉ đạo.

Với niềm tin vào bộ, dù thẩm quyền ký hợp đồng mua cổ phần AVG lẽ ra thuộc về tổng giám đốc Cao Duy Hải, ông Trà vẫn ký theo yêu cầu ông Son dù chỉ có một tiếng gấp gáp để chuẩn bị.

Ông Hải khai trong quá trình thực hiện dự án cũng từng đề nghị lùi thời gian để nghiên cứu lại giá. Nhưng khi thấy ông Trà, Son nói “cái này tốt, đã có chủ trương nên cần triển khai nhanh” thì thực hiện theo.

14 bị cáo tại TAND Hà Nội. Ảnh: TTXVN 

14 bị cáo tại TAND Hà Nội.

Trước toà, 7 thuộc cấp của bốn người đều khai thời điểm năm 2015, họ thực hiện theo mệnh lệnh cấp trên, nghĩ làm đúng chức trách được giao. Cựu thành viên Hội đồng quản trị MobiFone Phan Thị Hoa Mai cho hay trước khi vụ án bị phát giác, bà nghĩ quyết định do ông Tuấn ký là đúng, bởi hoàn toàn “tin tưởng vào cấp trên”. Thời điểm xảy ra vụ án, bà thấy đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong dự án. Tuy nhiên khi Thanh tra Chính phủ chỉ ra những sai phạm, bà mới hiểu mình đã sai thế nào.

Liên quan các sai phạm của dự án đầu tư vào AVG, 11 người nêu trên đều bị đưa ra xét xử vì tội Vi phạm các quy định về quản lý đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (điều 220), khung hình phạt 10-20 năm tù. Trong vụ án này còn có 5 người bị xét xử về hai tội Đưa hối lộ, Nhận hối lộ (điều 364, 354 Bộ luật Hình sự 2015) với mức hình phạt phải đối mặt từ 12 năm đến tử hình.

Phiên toà sẽ tiếp tục vào sáng 20/12, dự kiến kéo dài tới 31/12

    Nguồn : vnexpress

Chồng giả mạo chữ ký vợ vay tiền ngân hàng thì xử lý như thế nào?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: trường hợp chồng giả mạo chữ ký vợ vay tiền ngân hàng

Câu hỏi khách hàng:

Chồng tôi cùng với người khác đã giả mạo chữ ký của tôi – người thừa kế để vay tiền ngân hàng. Chồng tôi đã đưa toàn bộ số tiền đó cho họ vay, đến nay họ không trả cả gốc và lãi theo thỏa thuận. Chồng tôi phải trả qua lương hàng tháng cho ngân hàng. Luật sư cho tôi hỏi hành vi đó có vi phạm pháp luật hình sự không? Tôi có quyền khởi kiện không? Nếu tôi khởi kiện chồng tôi và người đó sẽ bị xử lý như thế nào? Tôi xin cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Thứ nhất, về việc giả mạo chữ ký.

Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép:

“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.”

Như vậy, hành vi làm giả chữ ký của chồng bạn và người khác để vay tiền ngân hàng dẫn đến việc ngân hàng đồng ý cho vay là hành vi lừa dối trong giao dịch dân sự dẫn đến bạn bị xâm phạm đến tài sản hay bị liên đới trách nhiệm dân sự,… Khi đó, bạn có thể khởi kiện lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn cư trú yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vay tiền với ngân hàng là vô hiệu.

Thứ hai, về giao dịch vay tiền giữa chồng bạn và người đó.

Mặc dù hợp đồng vay tài sản ngân hàng có chồng bạn là vô hiệu nhưng hợp đồng vay giữa chồng bạn và người khác bằng số tiền đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Việc người đó không trả tiền gốc và lãi đúng hạn theo hợp đồng giữa hai bên là căn cứ xác định trách nhiệm của người vay tiền khi vi phạm hợp đồng vay.

Khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Theo đó, bên vay tài sản phải trả tiền gốc và tiền lãi cho chồng bạn theo đúng như hợp đồng, trong trường hợp người này không trả đúng hạn sẽ bị tính lãi theo khoản 5 Điều trên.

Thứ ba, về việc xử lý vi phạm với chồng bạn và người cũng vay tiền.

Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ nên chúng tôi không thể xác định được chồng bạn có hành vi xâm phạm tài sản của bạn không để xác minh trách nhiệm của chồng bạn với bạn.

Tuy nhiên, với giao dịch của chồng bạn với ngân hàng, ngân hàng có thể kiện chồng bạn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2017:

 “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  1. a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
  2. b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

…”

Chồng bạn đã có hành vi làm giả chữ ký của bạn để vay tiền ngân hàng dẫn đến ngân hàng chấp nhận cho vay tiền, tùy thuộc vào số tiền mà chồng bạn vay mà khi ngân hàng khởi kiện ra Tòa án, chồng bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội danh trên theo các mức xử phạt.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trình tự, thủ tục cấp phép tổ chức đào tạo ngoại ngữ

Câu hỏi: Tôi đã làm hồ sơ gửi sở giáo dục và đào tạo để được cấp phép tổ chức đào tạo ngoại ngữ nhưng chưa biết sau bao lâu Sở sẽ giải quyết xong. Công ty  có thể cho tôi biết thời gian giải quyết hồ sơ của tôi là bao lâu được không?

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến bộ phận tư vấn của Luật Hiệp Thành. Về đăng ký quyền sở hữu tài sản khi xây dựng trên đất thuê, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Tại Khoản 3 Điều 13 Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm ngoại ngữ, tin học Ban hành kèm theo Thông tư số 03/2011/TT- BGDĐT có quy định như sau:

“3. Trình tự, thủ tục cấp phép

  1. a) Hồ sơ đề nghị cấp phép hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học được làm thành 1 bộ và gửi cho cơ quan có thẩm quyền cấp phép;
  2. b) Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp phép, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức thẩm định trên thực tế khả năng đáp ứng các điều kiện theo quy định và ghi kết quả vào biên bản thẩm định;
  3. c) Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày có kết quả thẩm định, người có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều này ra quyết định cho phép trung tâm triển khai hoạt động đào tạo, bồi dưỡng;
  4. d) Trường hợp trung tâm chưa đủ điều kiện để hoạt động, cơ quan có thẩm quyền cấp phép phải trả lời bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do”

heo đó thì trong khoảng 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ Sở Giáo dục đào tạo phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức thẩm định các điều kiện đào tạo của công ty bạn. Trong khoảng thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả thẩm định, Sở Giáo dục và đào tạo có nghĩa vụ cấp phép hoạt động đào tạo cho công ty bạn.

Nếu công ty bạn không đủ điều kiện hoạt động đào tạo thì Sở giáo dục và đào tạo cũng phải trả lời bằng văn bản trong đó nêu rõ lý do trong thời gian nêu trên.

 

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của bạn. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tái phạm hay tái phạm nguy hiểm

Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn pháp lý liên quan đến việc nhận biết giữa tái phạm và tái phạm nguy hiểm căn cứ theo Bộ luật hình sự năm 2015.

Câu hỏi: K phạm tội giết người theo điều 123 Bộ luật hình sự 2015 (BLHS). Giả sử vừa chấp hành xong hình phạt 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích) lại tái phạm tội như tình huống trên thì trường hợp phạm tội của K được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Cảm ơn luật sư.

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định tại Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015 định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:

“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

  1. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
  2. a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
  3. b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”.

Như vậy, để xác định trường hợp của K là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm cần phải xác định 2 vấn đề cơ bản sau:

– Tội giết người của K là lỗi vô ý hay cố ý?

– K đã bị kết án về loại tội gì?

Theo Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về việc phân loại tội phạm như sau:

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:

  1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
  2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
  3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
  4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

– Thứ nhất, Đối với tội giết người của K theo Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, vì vậy theo khoản 4 Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hơn nữa, thông tin mà bạn cung cấp thì K đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, do đó, có thể thấy K hoàn toàn nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình. Do đó, K phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

– Thứ hai, Đối với tội trộm cắp tài sản của K thuộc loại tội gì thì cần phải xác định mức phạt cao nhất của khung hình phạt mà K đã bị kết án. Do bạn không cung cấp thông tin là K đã bị kết án theo khoản 2 hay khoản 3 của Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 nên tôi sẽ chia làm hai trường hợp là K bị kết án theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015:

Đối với vấn đề xác định loại tội phạm sẽ không dựa vào mức án mà tòa án đã tuyên mà cần phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt để xác định. Nếu K phạm tội theo khoản 2 Điều 173 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm tù. Như vậy, tội phạm mà K đã bị kết án trong trường hợp này là tội phạm nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015( sủa đổi, bổ sung năm 2017).Như vậy, xét trong trường hợp này thì: K đã bị kết án , chưa được xóa án tích, lại thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên trương hợp phạm tội này của K là tái phạm K bị kết án theo khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Nếu như K bị kết án theo khoản 3 Điều 173 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù. Như vậy, theo khoản 3 Điều 9 Bộ luật hình sự, thì trường hợp này K đã phạm tội rất nghiêm trọng. Như vậy, xét trong trường hợp này thì: K đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích, lại thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên trương hợp phạm tội này của K là tái phạm nguy hiểm theo điểm a, khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Siết quản lý thực phẩm chức năng qua phương thức bán hàng đa cấp

Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) cho biết, Bộ Công Thương sẽ tăng cường phối hợp với Bộ Y tế trong quản lý bán sản phẩm thực phẩm chức năng thông qua phương thức bán hàng đa cấp.

Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, trong thời gian vừa qua, các công ty sản xuất, phân phối sản phẩm thực phẩm chức năng đã thực hiện nhiều hoạt động quảng cáo, tuyên truyền quá mức về chức năng, công dụng của các loại thực phẩm chức năng, mập mờ coi thực phẩm chức năng như là thuốc chữa bệnh. Điều này đã góp phần gây ra những thiệt hại cả về mặt sức khỏe và vật chất cho người tiêu dùng.

Thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, căn cứ trên cơ sở phân công trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, trong thời gian tới, Bộ Công Thương và Bộ Y tế sẽ tăng cường phối hợp hành động nhằm nâng cao hiệu quả quản lý sản phẩm thực phẩm chức năng, trong đó đặc biệt quan tâm tới việc phân phối thực phẩm chức năng theo phương thức kinh doanh đa cấp.

Theo đó, hai bộ sẽ chỉ đạo các đơn vị liên quan cùng phối hợp tổ chức các đoàn thanh tra kiểm tra liên ngành để kiểm tra hoạt động của những doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức đa cấp có bán các loại thực phẩm chức năng.

Bên cạnh đó, hai bộ cũng tăng cường trao đổi thông tin, kiểm soát và giám sát chặt chẽ các nội dung quảng cáo thực phẩm chức năng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Theo Cổng Thông Tin Điện Tử Chính Phủ

Quy định pháp luật về Hứa thưởng

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề hứa thưởng theo quy định pháp luật dân sự hiện hành.

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 24/11/2015.

  1. Luật sư tư vấn:

2.1. Hứa thưởng là gì?

Điều 570 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hứa thưởng như sau:

“1. Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng.

  1. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”.

Như vậy, hứa thưởng là sự tuyên bố công khai ý chí của một chủ thể nhất định về việc chủ thể này sẽ trả thưởng cho người thực hiện công việc theo yêu cầu mà người tuyên bố trả thưởng đã đặt ra. Trong trường hợp của bạn, bạn sẽ là người trả thưởng còn công việc yêu cầu ở đây là việc tìm lại chú chó bị lạc.

2.2. Đặc điểm của hứa thưởng

– Việc hứa thưởng là một hành vi pháp lý đơn phương

Trong hoạt động hứa thưởng chỉ thể hiện ý chí đơn phương của bên đưa ra lời hứa thưởng.

– Là nghĩa vụ phát sinh ngoài hợp đồng

Giữa các bên chủ thể trong quan hệ này không có hợp đồng. Mà trong việc tuyên bố hứa thưởng, quan hệ nghĩa vụ phát sinh kể từ khi người thực hiện công việc được hứa thưởng hoàn thành công việc theo yêu cầu. Khi đó, bên hứa thưởng có nghĩa vụ thực hiện việc trả thưởng như đã tuyên bố trước đây.

– Các loại hứa thưởng:

+ Hứa thưởng có điều kiện

+ Hứa thưởng không có điều kiện

2.3. Các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh do hứa thưởng

Chủ thể trong quan hệ này bao gồm 2 bên:

+ Bên có nghĩa vụ: là bên đã đưa ra cam kết hứa thưởng. Bên này có nghĩa vụ phải trả thưởng theo nội dung đã công bố.

+ Bên có quyền: là người đã hoàn thành công việc hứa thưởng đúng với yêu cầu mà bên hứa thưởng đã nêu trong tuyên bố hứa thưởng. Bên này có quyền nhận thưởng mà bên hứa thưởng đã cam kết. Bên có quyền này có thể là do một người thực hiện hoặc do nhiều người thực hiện.

2.4. Rút tuyên bố hứa thưởng

Căn cứ Điều 571 BLDS năm 2015 thì:

Điều 571. Rút lại tuyên bố hứa thưởng

Khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố”.

Theo đó, người đã tuyên bố hứa thưởng có thể rút lại tuyên bố hứa thưởng với các điều kiện sau:

– Khi chưa đến thời hạn bắt đầu thực hiện công việc;

– Phải theo cách thức của việc hứa thưởng;

– Trên phương tiện mà việc tuyên bố hứa thưởng đã công bố

2.5. Nội dung trả thưởng

Căn cứ Điều 572 BLDS năm 2015 thì khi công việc được hoàn thành theo đúng yêu cầu mà bên hứa thưởng đã đưa ra thì bên hứa thưởng có nghĩa vụ trả thưởng cho người đã hoàn thành công việc đó:

– Nếu một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng.

– Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên được nhận thưởng.

– Nếu nhiều người cùng hoàn thành công việc được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho những người đó.

– Nếu nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU 321 “TỘI ĐÁNH BẠC ” LUẬT HÌNH SỰ 2015 SỬA ĐỔI BỔ SUNG NĂM 2017

Quy định về Điều 321 “Tội đánh bạc ” luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 

Điều 321 quy định hai trường hợp phạm tội:

– Trường hợp người phạm tội đã có hành vi đánh bạc trái phép và tiền hay hiện vật đánh bạc có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên.

Hành vi đánh bạc cấu thành  tội phạm khi tiền hay hiện vật đánh bạc của từng lần đánh bạc có trị giá từ 5 triệu đồng trở lên. Tiền hay hiện vật dùng để đánh bạc là những thứ có thể thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc, trong người đánh bạc hoặc nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc.

Phân biệt các trường hợp khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc:

+ Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, trị giá hiện dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, trị giá hiện vật của những người cùng đánh bạc.

+ Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bong đá, cá độ đua ngựa…thì một lần chơi như vậy được hiểu là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một trận bóng đá, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa…trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều đợt và TNHS được xác định đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.

– Trường hợp phạm tội có hành vi đánh bạc trái phép và tiền hay hiện vật đánh bạc trị giá dưới 5 triệu nhưng chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoạc hành vi quy định tại Điều 322 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Chủ thể của tội phạm này là người đạt độ tuổi theo luật định và có năng lực TNHS. Tội phạm này thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là sát phạt nhau, tư lợi và mục đích là nhằm lấy tiền, tài sản từ người thua bạc.

Điều 321 BLHS năm 2015 quy định 2 khung hình phạt:

– Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Khung hình phạt tăng nặng  có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm áp dụng cho trường hợp phạm tội sau:

+ Có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu (Mức tối thiểu theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 là 5 triệu đồng) để truy cứu TNHS và lấy tiền hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính.

+ Tiền hoặc hiện vật  dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên;

+ Sử dụng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội:

+ Tái phạm nguy hiểm;

Ngoài hình phạt chính nêu trên người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng./.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Phân tích về Giao dịch Dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015

Luật Hiệp Thành đưa ra một số phân tích đối với vấn đề Giao dịch Dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ Luật Dân sự năm 2015

  1. Luật sư tư vấn:

Tại Điều 117 BLDS năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã thay thế từ “người” tham gia giao dịch bằng “chủ thể”. Điều này xác định rằng chủ thể tham gia giao dịch dân sự có thể là cá nhân (con người về mặt sinh học) hoặc pháp nhân (con người về mặt pháp lý).

Theo quy định tại Điều 122, giao dịch dân sự nếu không đáp ứng được một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nêu tại Điều 117 thì vô hiệu, trừ trường hợp BLDS năm 2015 có quy định khác.

Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội, BLDS năm 2015 đã thay thế từ “pháp luật” bởi từ “luật” trong quy định giao dịch dân sự do vi phạm điều cấm. Có thể thấy rằng từ “pháp luật” có nội hàm rộng hơn so với từ “luật”. Pháp luật có thể được hiểu là hệ thống các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể nào đó, trong đó mặt biểu hiện của nó là các quy định trong Hiến pháp, luật, nghị định, thông tư, chỉ thị… điều chỉnh lĩnh vực có liên quan. Vậy có thể hiểu từ “luật” được sử dụng tại Điều 122 BLDS năm 2015 là để chỉ các quy định trong văn bản luật mà không phải các quy định trong nghị định, thông tư, chỉ thị…?! Quy định này nếu được hiểu theo cách trên, có tác dụng nhấn mạnh tầm quan trọng và hiệu lực của văn bản luật so với các văn bản dưới luật, trong trường hợp có mâu thuẫn giữa các quy định với nhau.

Về giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Khi quy định về vấn đề này, Điều 125 đã quy định thêm trường hợp ngoại lệ tại khoản 2, nhằm công nhận hiệu lực của các giao dịch dân sự dù không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự sẽ không bị vô hiệu trong trường hợp giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó; giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ; và giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự. Những ngoại lệ này thể hiện sự tôn trọng quyền tự do ý chí, tính độc lập về tài sản, đảm bảo quyền và lợi ích của bên yếu thế trong giao dịch dân sự.

Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, được bổ sung một trường hợp ngoại lệ tại khoản 2 Điều 126: Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định của các giao dịch dân sự, tránh việc lợi dụng vào quy định của pháp luật để yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu khi các bên đều đã đạt được mục đích chính của mình dù trước đó có nhầm lẫn xảy ra.

Về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức, theo nguyên tắc, giao dịch dân sự không tuân thủ về mặt hình thức thì vô hiệu. Tuy nhiên, theo Điều 129 vẫn có hai trường hợp ngoại lệ sau: Thứ nhất, giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch; Thứ hai, giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch. Trên thực tế đã có không ít những vụ việc liên quan đến yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức, tuy nhiên đa phần xuất phát từ sự không thiện chí của một bên trong việc lợi dụng việc không tuân thủ quy định về mặt hình thức để không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết với bên kia.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trách nhiệm bồi thường khi gây tai nại giao thông gây chết người

Luật Hiệp Thành tư vấn về trường hợp Trách nhiệm bồi thường khi gây tai nại giao thông gây chết người. Nội dung tư vấn như sau:

Câu hỏi: Thưa Luật sư. Tôi xin được luật sư tư vấn giúp tôi là như thế này: Tôi có điều khiển xe ô tô đi đúng phần đường, không có nồng độ cồn, không chạy quá tốc độ, giấy tờ đầy đủ. Khi đang lưu thông thì có 1 xe mô tô A chuyển làn bên hướng ngược chiều bị một xe mô tô B đi hướng ngược lại với chiều lái xe của tôi và va chạm với xe mô tô A và tiếp tục va chạm vào xe của tôi. Lúc đó tôi có xuống xe kêu người dân xung quanh cấp cứu người bị nạn và thông báo cho cảnh sát giao thông đến. Khi cảnh sát giao thông đến thì có kiểm tra nồng độ cồn và giấy tờ các kiểu xong rồi bảo tôi về trụ sở công an đợi. Thì vài giờ đồng hồ sau thì có cán bộ điều tra gọi tôi lên lấy lời khai và thông báo cho tôi là người điều khiển mô tô B đã tử vong và làm thủ tục các kiểu và cho tôi về hiện tại thì xe và giấy tờ bị công an giam giữ. Xin hỏi Luật sư trong trường hợp như vậy tôi có vi phạm về an toàn giao thông và có trách nhiệm bồi thường không? Xin chân thành cám ơn Luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

– Bộ luật dân sự năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  1. a) Làm chết người;
  2. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

…”

Trong các vụ tai nạn giao thông, cơ quan công an căn cứ vào một số yếu tố như hoàn cảnh khi xảy ra tai nạn, lỗi của các bên, hành vi vi phạm pháp luật giao thông, hậu quả của tai nạn… để xác định trách nhiệm của các bên. Theo thông tin bạn cung cấp, bạn điều khiển xe ô tô đi đúng phần đường, không có nồng độ cồn, không chạy quá tốc độ, giấy tờ đầy đủ nhưng cơ quan công an cũng căn cứ vào một số vấn đề như bạn có đang nghe điện thoại hay không chú ý lái xe không, phản ứng của bạn khi người bị nạn va chạm với xe của mình,… để kết luận về việc bạn có vi phạm luật giao thông không và xác định trách nhiệm của bạn.

Trong trường hợp bạn có hành vi vi phạm giao thông đường bộ, bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sựtheo quy định của Điều trên và phải bồi thường cho gia đình người bị nạn theo quy định tại Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

  1. a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
  2. b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  3. c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
  4. d) Thiệt hại khác do luật quy định.
  5. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Trường hợp cơ quan công an xác định bạn không có hành vi vi phạm giao thông, bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc bồi thường thiệt hại sẽ do gia đình nạn nhân và bạn, người va chạm với nạn nhân trước đó thỏa thuận với nhau, nếu không thỏa thuận được sẽ do Tòa án quyết định dựa vào một số yếu tố như lỗi các bên, thiệt hại về tính mạng, thiệt hại tài sản (về phương tiện, chi phí cấp cứu,…), thiệt hại tinh thần,…

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Thủ tướng phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

Trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hoá và tổ chức triển khai thực hiện những nhiệm vụ cơ bản.

Trong đó, tuyên truyền, phổ biến thông tin về Hiệp định CPTPP và thị trường của các nước tham gia Hiệp định CPTPP.

Cụ thể, tăng cường phổ biến về Hiệp định CPTPP cho các đối tượng có liên quan (nhân dân, đặc biệt là các đối tượng có thể chịu tác động như nông dân, ngư dân, cơ quan quản lý cấp Trung ương và địa phương, hiệp hội ngành nghề, hợp tác xã, cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ) thông qua các phương tiện truyền thông, trang thông tin điện tử, các lớp tập huấn, hội thảo nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về nội dung cam kết cũng như các công việc cần triển khai để thực thi hiệu quả Hiệp định CPTPP.

Chú trọng tập huấn cho các cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực như đầu tư, dịch vụ, hải quan, mua sắm của Chính phủ, phòng vệ thương mại, sở hữu trí tuệ, nông, lâm, ngư nghiệp, lao động, môi trường… về các cam kết cụ thể có liên quan trong Hiệp định CPTPP bảo đảm hiểu rõ, hiểu đúng, từ đó giúp việc thực thi Hiệp định được đầy đủ và hiệu quả.

Thiết lập Đầu mối thông tin về Hiệp định CPTPP nói riêng và các hiệp định thương mại tự do (FTA) nói chung tại Bộ Công Thương để cung cấp thông tin, hướng dẫn và làm rõ các nội dung cam kết và các vấn đề có liên quan đến Hiệp đinh CPTPP và các FTA mà Việt Nam tham gia.

Củng cố mạng lưới, tăng cường năng lực và đẩy mạnh công tác cung cấp thông tin, dự báo về các thị trường xuất nhập khẩu, thị trường trong nước của các cơ quan Nhà nước có chức năng cung cấp thông tin về thương mại – đầu tư để các doanh nghiệp Việt Nam có thể kịp thời nắm bắt các thông tin, yêu cầu về kỹ thuật, quy định về quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa của các nước đối tác CPTPP nói riêng và các đối tác nói chung, cũng như dự báo được nhu cầu của thị trường trong nước và ứng phó với sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu.

Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực

Nhiệm vụ chủ yếu khác của Kế hoạch là nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể, xây dựng các chương trình hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành hàng, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, nông dân, phù hợp với cam kết quốc tế; đồng thời, chuẩn bị những giải pháp ứng phó, hỗ trợ đối với những ngành hàng, mặt hàng chịu tác động lớn, trực tiếp từ biến động thị trường quốc tế. Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp; và ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất kinh doanh; xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật (tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, xuất xứ, bảo vệ môi trường…) phù hợp với các cam kết quốc tế để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, sản phẩm Việt Nam, và bảo vệ người tiêu dùng.

Đồng thời, tăng cường sử dụng hệ thống cảnh báo sớm trong lĩnh vực phòng vệ thương mại nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng như chủ động xây dựng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế để bảo vệ sản xuất trong nước, ngăn chặn các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam; xây dựng, củng cố cơ chế phối hợp liên ngành, địa phương trong các vụ việc phòng vệ thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với các vụ điều tra phòng vệ thương mại với hàng hóa Việt Nam, sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp định hoặc các cơ chế khác khi cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam; và nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các FTA thế hệ mới.

Tập trung cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo mô hình sản xuất tiên tiến, ứng dụng khoa học – công nghệ, an toàn, thân thiện với môi trường; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ, triển khai biện pháp cải thiện, nâng cao năng suất lao động tại doanh nghiệp và các ngành sản xuất.

Tăng cường các biện pháp, cơ chế khuyến khích, định hướng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kết nối với doanh nghiệp nội địa, góp phần vào việc hình thành và phát triển chuỗi cung ứng; chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kỹ thuật – công nghệ, luật, tài chính…

Tiến hành đánh giá định lượng những tác động của Hiệp định CPTPP đối với các ngành sản xuất, cung cấp dịch vụ để từ đó đề xuất các biện pháp cụ thể trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành này.

Theo Cổng Thông Tin Chính Phủ