Có được để lại tài sản của mình sau khi mất cho người không cùng huyết thống?

Luật Hiệp Thành đưa ra những tư vấn đối với vấn đề thừa kế tài sản là QSDĐ

Hỏi: Xin chào Luật sư ạ! Hiện tại tôi đang có một vấn đề cần sự tư vấn giúp đỡ của Luật sư ạ. Gia đình tôi đang làm thủ tục nhận uỷ quyền thừa kế của bà Nguyễn Thị A nhưng bà A với gia đình tôi không có quan hệ họ hàng, bà A không có con cháu, là người sống cô đơn tại địa phương vì thời điểm trước bà bị thất lạc họ hàng và không liên hệ, tìm lại được, bà có nhận bố tôi làm anh nhưng không có giấy tờ gì xác nhận mà chỉ nhận nhau qua miệng. Chúng tôi coi bà A như bà của mình và có trách nhiệm chăm lo cho bà khi tuổi cao sức yếu. Sau khi lâm trung bà A có để lại một thửa đất ở diện tích 162 m2 và bà muốn để lại thừa kế cho tôi, có giấy uỷ quyền thừa kế và đầy đủ chữ ký các bên, đồng thời có xác nhận của UBND xã. Vậy luật sư cho tôi hỏi bây giờ tôi muốn làm thủ tục nhận thừa kế của bà A có đúng quy định của pháp luật không? Và thủ tục để đăng ký tại cơ quan chuyên môn về đất đai cần những giấy tờ gì ạ? Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Chào anh/chị, cảm ơn anh/chị đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề anh/chị đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, chúng tôi xin giải đáp như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 24/11/2015;

– Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 20/06/2014.

  1. Luật sư tư vấn

Theo thông tin anh/chị cung cấp, bà Nguyễn Thị A trước khi mất đã tạo lập tài sản là quyền sử dụng đất đối với thửa đất ở có diện tích 162m2. Căn cứ quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 thì bà A có quyền lập di chúc để định đoạt lại tài sản của mình là quyền sử dụng đất cho người khác. Do đó, nếu giấy ủy quyền thừa kế mà anh/chị nhắc đến được hiểu là nội dung của một văn bản di chúc, trong đó thể hiện ý chí của bà A là để lại thửa đất ở cho anh/chị được toàn quyền quản lý, sử dụng thì anh/chị được xác định người được thừa kế hợp pháp của bà A. Để thực hiện thủ tục nhận thừa kế đối với tài sản do bà A để lại, trước tiên anh/chị cần phải thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế và có thể yêu cầu công chứng văn bản này theo quy định tại Điều 58 Luật công chứng năm 2014. Cụ thể:

“Điều 58. Công chứng văn bản khai nhận di sản

  1. Người duy nhất được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó có quyền yêu cầu công chứng văn bản khai nhận di sản.”

Hồ sơ thực hiện công chứng bao gồm:

– Giấy chứng tử của bà Nguyễn Thị A;

– Di chúc của bà A;

– Giấy tờ về quyền sử dụng đất;

– Giấy tờ tùy thân: CMTND, sổ hộ khẩu của bạn…

Việc thụ lý văn bản khai nhận di sản thừa kế của bạn sẽ được niêm yết công khai tại Uỷ ban nhân dân xã nơi bà A thường trú cuối cùng. Sau 15 ngày niêm yết, nếu không có ai tranh chấp thì sẽ được công chứng văn bản khai nhận di sản thừa kế này. Văn bản khai nhận di sản thừa kế là căn cứ để anh/chị được nhận thừa kế quyền sử dụng đất do bà A để lại.

Tiếp theo anh/chị cần đến chi cục thuế tại địa phương để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhân cá nhân cho việc nhận thừa kế quyền sử dụng đất.

Cuối cùng, anh/chị đến Phòng tài nguyên – môi trường của Uỷ ban nhân dân quận (huyện) để đăng ký việc nhận thừa kế quyền sử dụng đất. Hồ sơ bao gồm:

– Đơn đăng ký biến động ( theo mẫu)

– Giấy tờ về quyền sử dụng đất;

– Văn bản khai nhận di sản thừa kế;

– Giấy tờ chứng minh hoàn thành nghĩa vụ tài chính;

– Giấy tờ tùy thân.

Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký của anh/chị, nếu hồ sơ hợp lệ thì sẽ tiến hành việc đăng ký nhận thừa kế cho anh/chị trong thời hạn do pháp luật quy định.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác anh/chị vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Chế độ ăn ở đối với phạm nhân vào dịp lễ tết được quy định như thế nào?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề: Chế độ ăn, ở đối với phạm nhân vào dịp lễ, tết được quy định như thế nào?

Câu hỏi khách hàng:

Kính thưa luật sư, tôi có con đang ở tù trong Thanh Hóa, tôi muốn luật sư hỗ trợ tôi và gia đình biết về chế độ ăn uống sinh hoạt và lao động của những người đi tù là như thế nào? Vì con tôi mới đi tù được 1 tháng mà giờ gần tết nên gia đình rất quan tâm đến cháu.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Thi hành án hình sự số 53/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010;

– Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2011 Quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân;

– Nghị định số 90/2015/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2011 của chính phủ Quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Nhà nước luôn có chính sách rất nhân đạo đối với phạm nhân vào các ngày lễ, tết của dân tộc. Vào dịp Tết, các phạm nhân cũng được nghỉ lao động. Trước và sau Tết, các phạm nhân đều được tạo điều kiện để gặp người thân tới thăm. Thông thường, ngày 28 Tết thì các phạm nhân thu dọn dụng cụ lao động. Phạm nhân được nghỉ lao động từ ngày 29 đến hết mùng 3 Tết, mùng 4 thì đi làm lấy ngày, làm khai xuân.

Không chỉ được nghỉ lao động, vào ngày tết thì các trại giam còn tổ chức sinh hoạt thể thao, văn nghệ và đặc biệt là tổ chức tết tại trại giam và thường có lễ chúc tết các phạm nhân vào sáng ngày mồng một tết. Tất nhiên mỗi trại giam còn có cơ chế, chính sách riêng với những phạm nhân nên những quy định chung của pháp luật sẽ là căn cứ cụ thể nhất về chế độ ăn, ở, lao động cũng như sinh hoạt của phạm nhân trong dịp lễ, tết như sau:

Căn cứ theo Điều 42 Luật thi hành án hình sự năm 2010 quy định về chế độ ăn, ở của phạm nhân.

“Điều 42. Chế độ ăn, ở đối với phạm nhân

  1. Phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau xanh, thịt, cá, đường, muối, nước mắm, bột ngọt, chất đốt. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy định của pháp luật, thì định lượng ăn được tăng thêm. Ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật, phạm nhân được ăn thêm nhưng mức ăn thêm không quá năm lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.

Căn cứ yêu cầu bảo đảm sức khỏe của phạm nhân trong quá trình giam giữ, lao động, học tập tại nơi chấp hành án, Chính phủ quy định cụ thể định mức ăn phù hợp với điều kiện kinh tế, ngân sách và biến động giá cả thị trường. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có thể quyết định hoán đổi định lượng ăn cho phù hợp với thực tế để bảo đảm cho phạm nhân ăn hết tiêu chuẩn.

  1. Ngoài tiêu chuẩn ăn quy định tại khoản 1 Điều này, phạm nhân được sử dụng quà, tiền của mình để ăn thêm nhưng không được quá ba lần định lượng trong 01 tháng cho mỗi phạm nhân.
  2. Phạm nhân được bảo đảm ăn, uống vệ sinh. Việc nấu ăn cho phạm nhân do phạm nhân đảm nhiệm dưới sự giám sát, kiểm tra của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.

Bếp ăn cho phạm nhân được cấp các dụng cụ cần thiết cho việc nấu ăn, đun nước uống và chia đồ ăn cho phạm nhân theo khẩu phần tiêu chuẩn.

  1. Phạm nhân được ở theo buồng giam tập thể, trừ phạm nhân đang bị giam riêng theo quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 27 của Luật này. Chỗ nằm tối thiểu của mỗi phạm nhân là 02 mét vuông (m2). Đối với phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu là 03 mét vuông (m2).”

Căn cứ Nghị định số 90/2015/NĐ-CP năm 2015 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 117/2011/NĐ-CP năm 2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân. Căn cứ quy định tại Điều 1 Nghị định 90/2015/NĐ-CP năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 117/2011/NĐ-CP năm 2011:

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Khoản 1 Điều 8 như sau:

“Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân.

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Khoản 1 Điều 8 như sau:

Chế độ ăn, nghỉ lao động trong các ngày Lễ, Tết của phạm nhân được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 29, Khoản 1 Điều 42 Luật Thi hành án hình sự và Khoản 1 Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2012.”

Theo đó, đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 29, Khoản 1 Điều 42 Luật Thi hành án hình sự và Khoản 1 Điều 115 Bộ luật Lao động năm 2012 thì phạm nhân được hưởng chế độ cụ thể sau:

Điều 29 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về Chế độ lao động của phạm nhân:

Phạm nhân được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng; được nghỉ lao động các ngày thứ Bảy, Chủ nhật, lễ, Tết theo quy định của pháp luật.

Thời gian phạm nhân lao động và học tập, học nghề không quá 8 giờ trong 1 ngày. Trường hợp đột xuất hoặc thời vụ, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng không được quá 2 giờ trong 1 ngày. Trường hợp phạm nhân lao động thêm giờ hoặc lao động trong ngày thứ bảy, chủ nhật thì được nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật.

Phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau xanh, thịt, cá, đường, muối, nước mắm, bột ngọt, chất đốt. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy định của pháp luật, thì định lượng ăn được tăng thêm. Ngày Lễ, Tết theo quy định của pháp luật, phạm nhân được ăn thêm nhưng mức ăn không quá năm lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.

Căn cứ yêu cầu bảo đảm sức khỏe của phạm nhân trong quá trình giam giữ, lao động, học tập tại nơi chấp hành án, Chính phủ quy định cụ thể định mức ăn phù hợp với điều kiện kinh tế, ngân sách và biến động giá cả thị trường. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện có thể quyết định hoán đổi định lượng ăn cho phù hợp với thực tế để bảo đảm cho phạm nhân ăn hết tiêu chuẩn.

Căn cứ theo các quy định trên, phạm nhân trong Ngày Tết Nguyên đán phạm nhân được ăn gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường, được nghỉ lao động các ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật.

Như vậy chế độ ăn, ở và sinh hoạt của phạm nhân trong dịp tết được pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Trong thời gian chấp hành án ở trại giam, nhất là các thời điểm trước và sau tết thì trại giam luôn có chính sách tạo điều kiện cho người nhà thăm nom phạm nhân, vậy nên gia đình lo lắng và quan tâm đến người nhà thì có thể sắp xếp đến thăm. Còn về nội dung trả lời về chế độ ăn, ở của phạm nhân thì hy vọng bài viết trên đây sẽ làm hài lòng bạn và đọc giả quan tâm.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Cấp đổi bằng lái xe qua Cổng Dịch vụ công quốc gia

Ông Mai Tiến Dũng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cho biết, tháng 11/2019 sẽ khai trương Cổng Dịch vụ công quốc gia, trong đó chọn một số dịch vụ làm trước như cấp đổi bằng lái xe và một số dịch vụ mà người dân và doanh nghiệp cần nhất.

Sáng 13/6, Tổ công tác của Thủ tướng làm việc với 10 bộ, cơ quan để đôn đốc, kiểm tra tình hình triển khai các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng Chính phủ điện tử.

“Tinh thần Thủ tướng nhắc tôi, 10 bộ tham gia buổi làm việc hôm nay phải là mẫu hình, Trung ương làm trước, địa phương làm sau. Những nhiệm vụ quá hạn, sắp tới hạn thì cần rà soát để làm quyết liệt. Chính phủ điện tử mà làm chậm thì không đạt yêu cầu”, ông Dũng nhấn mạnh.

Cũng theo ông Dũng, ngày 24/6 tới, Thủ tướng sẽ khai trương hệ thống e-Cabinet kết nối các thành viên Chính phủ, hướng tới chính phủ phi giấy tờ, thay vì lấy phiếu các thành viên, thảo luận trên giấy thì chuyển sang hệ thống điện tử.

Trong tháng 11/2019, Chính phủ cũng sẽ khai trương Cổng Dịch vụ công quốc gia. Theo đó, sẽ chọn một số dịch vụ làm trước như cấp đổi bằng lái xe và một số dịch vụ mà người dân và doanh nghiệp cần nhất.

Nhắc tới các ví dụ thực tế ở nhiều quốc gia như mỗi người dân đổ rác hay đỗ xe sai vị trí đều được ghi nhận, phản ánh về trung tâm và bị phạt nguội chứ không có cảnh sát đến tận nơi, ông Dũng cho rằng, “nếu vẫn làm như cũ thì sẽ không thể đạt được như thế”.

Tại buổi làm việc, Tổ công tác lưu ý các bộ cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các đề án cơ sở dữ liệu, như cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức, viên chức (Bộ Nội vụ), dữ liệu về doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), dữ liệu về đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường), dữ liệu về bảo hiểm (Bảo hiểm Xã hội Việt Nam) và nghị định liên quan (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (Bộ Công an), cơ sở dữ liệu về tài chính (Bộ Tài chính).

Cùng với đó, các bộ cũng cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện Cổng Dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ.

Theo Tiền Phong

Các trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về Các trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng.

  1. Cơ sở pháp lý:

– Luật Hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09/06/2000;

– Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19/06/2014;

– Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/12/2014 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình.

  1. Luật Hiệp Thành tư vấn:

2.1. Quy định về tài sản riêng của vợ, chồng

Kế thừa và phát triển các quy định về tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định chế độ sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng được cụ thể hơn, tạo được cơ sở pháp lí thống nhất trong thực tế áp dụng.

Căn cứ vào Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản riêng của vợ, chồng.

Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

  1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
  2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này”.

Căn cứ vào Điều 11 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật:

Điều 11. Tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật

  1. Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
  2. Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
  3. Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng”.

 

2.2. Các trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng

  1. Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Trong việc sử sụng tài sản riêng, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi vợ chồng chung sống với nhau, họ có thể thỏa thuận về việc sử dụng tài sản riêng của mỗi bên sao cho có thể khai thác tốt nhất giá trị sử dụng của tài sản. Thông thường, khi vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc thì không có sự phân biệt trong việc sử dụng tài sản riêng của vợ, chồng. Có thể, là tài sản riêng của vợ, chồng được sử dụng để bảo đảm nhu cầu đời sống chung của gia đình. Nhưng xuất phát từ việc đảm bảo cuộc sống chung của gia đình, quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ ,chồng có thể bị hạn chế.

Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ (khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Như vậy, theo quy định tại điều này thì quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng đã bị hạn chế. Tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự đồng ý, thỏa thuận của vợ chồng. Quy định này dựa trên truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, luôn có sự yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.

Mặc dù theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình, vợ, chồng có quyền có tài sản riêng, nhưng trong thực tế cuộc sống chung của vợ chồng thường không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ và chồng nếu đã được đưa sử dụng mà hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống chung của gia đình, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ và chồng, nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Như vậy cũng là đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội, vì gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Sự tồn tại bền vững của gia đình là cơ sở cho sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.

  1. Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy địn tại khoản 2 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên”.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trong trường hợp cuộc sống chung của gia đình gặp nhiều khó khăn vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung của vợ, chồng không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp phần tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mình để bảo đảm cuộc sống chung của gia đình. Nghĩa vụ này của vợ, chồng xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích chung của gia đình.

Căn cứ vào quy định tại khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình”. Xuất phát từ tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình chúng ta có thể thấy vợ chồng trên nguyên tắc có quyền và nghĩa trong việc đóng góp tài sản để thanh toán các chi phí phục vụ cho nhu cầu cuộc sống chung của gia đình. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể: “…vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên”. Đây là điểm mới được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định này được cụ thể hóa hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

  1. Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Pháp luật  quy định trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng ở Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ở Điều 63 quy định quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn “Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

Đây chính là điểm mới, tiến bộ hơn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Ở Luật năm năm 2000 chưa có quy định về việc lưu cư của vợ, chồng sau khi ly hôn mà chỉ được quy định ở tại khoản 1 Điều 30 của Nghị định số 70/2001/NĐ – CP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đến năm 2014 quy định này đã được cụ thể hóa trong luật nhằm bảo vệ quyền lợi của vợ hoặc chồng sau khi ly hôn. Sau khi ly hôn nếu ngôi nhà là tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà sau khi ly hôn mà bên chồng hoặc vợ (không phải chủ sở hữu của ngôi nhà đó) gặp khó khăn về chỗ ở thì có qyền được lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấm dứt hôn nhân. Như vậy, trong thời hạn 6 tháng khi bên vợ, chồng lưu cư tại căn nhà thì bên chồng, vợ là chủ sở hữu ngôi nhà đó không được phép bán ngôi nhà đó trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.

Trường hợp này làm hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ sau khi ly hôn. Việc pháp luật quy định như vậy nhằm tạo điều kiện về nơi ở cho bên vợ, chồng không có chỗ ở có thể tìm được chỗ ở trong thời gian nhất định.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Bắn pháo hoa đêm giao thừa có bị phạt không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về việc bắn pháo hoa đêm giao thừa có bị phạt không?

Chào Luật sư xin hỏi: Bạn em mới cho mấy quả pháo hoa, em dự định đêm giao thừa sẽ bắn ở khu vực đằng sau nhà, rất vắng người. Nếu bị phát hiện em có bị phạt không? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015;

– Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2009 về quản lý, sử dụng pháo;

– Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

  1. Nội dung tư vấn:

Hành vi sử dụng trái phép các loại pháo là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại Điều 4, Nghị định số 36/2009/NĐ-CP về quản lý, sử dụng pháo.

“1. Sản xuất, mua, bán, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo nổ, thuốc pháo nổ.

  1. Sản xuất, mua, bán, nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo hoa, thuốc pháo hoa.
  2. Mua, bán, tàng trữ, sử dụng thuốc nổ lấy từ các loại bom, mìn, đạn, lựu đạn, vật liệu nổ quân dụng (dùng trong quốc phòng, an ninh), vật liệu nổ công nghiệp để sản xuất trái phép pháo, thuốc pháo.
  3. Sử dụng súng, dùng vật liệu nổ không đúng quy định để gây tiếng nổ thay cho pháo”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình:

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

  1. a) Không kê khai và đăng ký đầy đủ các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ với cơ quan có thẩm quyền;
  2. b) Sử dụng các loại pháo mà không được phép”.

Như vậy, việc sử dụng trái phép các loại pháo là hành vi bị nghiêm cấm. Ngoài ra việc đốt pháo trong dịp tết thì sẽ bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (tùy thuộc vào số lượng pháo, hậu quả, mức độ của hành vi…) cụ thể là tội “gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại Điều 318 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2018.

Vì vậy chúng tôi khuyên bạn không nên sử dụng trái phép pháo hoa trong đêm giao thừa để tránh bị xử phạt.

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Điều kiện được tha tù trước thời hạn có điều kiện

Một phạm nhân (người đang chấp hành hình phạt tù) phải đáp ứng những điều kiện pháp lý nào thì sẽ được tha tù trước thời hạn ? Ra tù trước thời hạn thì có phải bồi thường thiệt hại không ? Phạm tội sau khi ra tù thì bị xử lý thế nào Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn cụ thể:

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư, Luật sư cho tôi hỏi điều kiện được tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định mới nhất trong văn bản pháp luật nào? Điều kiện cụ thể là gì?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

– Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tha tù trước thời hạn có điều kiện

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Điều kiện được tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định mới nhất theo quy định Điều 66 và Điều 106 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tha tù trước thời hạn có điều kiện. Theo đó, nếu người phạm tội muốn được tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cần đáp ứng các điều kiện:

– Đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.

– Phạm tội lần đầu. Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Trước đó chưa phạm tội lần nào;

+ Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;

+ Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

+ Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.

– Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt thể hiện ở việc chấp hành tốt Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự, cụ thể như sau:

+ Người đang chấp hành án phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn phải có ít nhất 20 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

+ Người đang chấp hành án phạt tù trên 20 năm đến 30 năm phải có ít nhất 16 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

+ Người đang chấp hành án phạt tù trên 15 năm đến 20 năm phải có ít nhất 12 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

+ Người đang chấp hành án phạt tù trên 10 năm đến 15 năm phải có ít nhất 08 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

+ Người đang chấp hành án phạt tù trên 05 năm đến 10 năm phải có ít nhất 06 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

+ Người đang chấp hành án phạt tù trên 03 năm đến 05 năm phải có ít nhất 04 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

+ Người đang chấp hành án phạt tù từ 03 năm trở xuống phải có ít nhất 02 quý liên tục liền kề thời điểm xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên.

– Có nơi cư trú rõ ràng. Nơi cư trú là nơi tạm trú hoặc thường trú theo quy định của Luật Cư trú mà người được tha tù trước thời hạn có điều kiện về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được tha tù. Nơi cư trú rõ ràng là nơi cư trú có địa chỉ được xác định cụ thể.

– Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

+ Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền và án phí là đã nộp đầy đủ các khoản tiền phạt và án phí thể hiện ở các biên lai, chứng từ hoặc có quyết định miễn chấp hành hình phạt tiền, miễn nộp án phí của Tòa án.

+ Đã chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một trong các trường hợp: Đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án; có quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; có thỏa thuận bằng văn bản của bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại về việc không phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết định của Tòa án được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.

– Đã chấp hành được ít nhất một phần hai mức phạt tù có thời hạn; ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

+ Thời gian đã chấp hành án phạt tù là thời gian người đó bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù trong các cơ sở giam giữ hoặc thời gian người đó bị bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không kể thời gian được tại ngoại, được hoãn, tạm đình chỉ và thời gian được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Thời gian đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (nếu có) được tính để trừ vào phần thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại.

+ Trường hợp người đang chấp hành án phạt tù là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn. Người có công với cách mạng, thân nhân người có công với cách mạng được xác định theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng. Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng được xác định theo quy định của pháp luật về người khuyết tật. Việc xác định người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật.

– Khi xét tha tù trước thời hạn có điều kiện phải xem xét thận trọng, chặt chẽ để bảo đảm việc tha tù trước thời hạn có điều kiện không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là đối với các trường hợp phạm tội về ma túy, tham nhũng, phạm tội có tổ chức, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Đánh lô đề có được coi là đánh bạc không ?

Luật Hiêp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Trách nhiệm pháp lý khi đánh lô đề

Câu hỏi khách hàng:

Chào luật sư, tôi có một vấn đề cần tư vấn như sau: Em gái tôi có đánh đề, số tiền thắng là số tiền là 2,8 triệu và số tiền thưởng là 2,8 triệu. Gần đây chủ ghi lô đề có bị bắt và công an có tra được gia những người đánh đề hôm đó và có em gái tôi. Bây giờ tôi muốn hỏi là đánh lô đề như vậy có được coi là đánh bạc không? Và số tiền xác định đánh đề có bao gồm tiền trúng đề không? Tôi xin cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

– Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

  1. Đánh lô đề có được coi là đánh bạc không?

Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Có quy định về tội đánh bạc như sau:

“Điều 321. Tội đánh bạc

  1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

Theo nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP, có hướng dẫn về việc đánh bạc, “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. Theo đó có thể nói rằng, việc đánh lô đề là một hình thức đánh bạc. Như vậy, nếu giá trị đánh đề đạt đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì em gái chị có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.

  1. Các xác định tổng giá trị dùng để đánh bạc đối với người chơi lô đề?

Theo nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn cách xác định tổng giá trị đánh đề như sau:

– Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc:

+ Trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ.Ví dụ: B mua 5 số đề với tổng số tiền là 100.000 đồng, tỷ lệ được thua 1/70 lần, trong đó có 4 số đề mua mỗi số 10.000 đồng, 1 số đề mua với số tiền 60.000 đồng, hành vi của B bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa… và B đã trúng số đề mua với số tiền 60.000 đồng thì số tiền B dùng đánh bạc trong trường hợp này là 100.000 đồng + (60.000 đồng × 70 lần) = 4.300.000 đồng.

+ Trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ.

– Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc:

+ Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người). Ví dụ: D là chủ đề của 5 người chơi số đề khác nhau, mỗi người chơi một số đề với số tiền là 50.000 đồng (tổng cộng là 250.000 đồng); tỷ lệ được thua là 1/70 lần và có 2 người đã trúng số đề thì số tiền D dùng để đánh bạc trong trường hợp này là 250.000 đồng + (50.000 đồng × 70 lần × 2 người) = 7.250.000 đồng.

+ Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa… thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.

Như vậy, trong trường hợp của em gái bạn, thì tổng số tiền đánh bạc để chịu trách nhiệm hình sự là tổng số tiền em gái chị mua đề và số tiền trúng đề của em gái chị. Vi vậy, tổng số tiền đánh bạc của em gái chị là 5,6 triệu. Với số tiền này theo khoản 1 Điêu 321 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì em gái thể có thểchịu phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Ông Nguyễn Bắc Son không nhớ tiêu 3 triệu USD vào việc gì

Đề cập lời khai về việc nhận hối lộ 3 triệu USD, ông Nguyễn Bắc Son mong HĐXX cho gặp gia đình và con gái để thống nhất phương án khắc phục hậu quả.

Chiều 18/12, do có vấn đề về sức khỏe nên bị cáo Nguyễn Bắc Son, cựu Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông được nằm theo dõi ở phòng cách ly. Lúc 16h, ông Son được đưa vào phòng xử.Cựu bộ trưởng nói sức khỏe đã ổn định hơn buổi sáng. Bị cáo xin gặp gia đình để khắc phục hậu quả. Riêng tội danh tham ô, ông đã thừa nhận nên đề nghị luật sư không cần bào chữa.

Tại phiên tòa hôm nay, cựu Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông đã dành nhiều thời gian để nói về quá trình thực hiện dự án, trong đó có ông Trương Minh Tuấn cùng tham gia. Ông nói, tất cả văn bản MobiFone trình lên ông đều chuyển Vụ quản lý doanh nghiệp xem xét. Khi cơ quan tham mưu thấy hợp lý, cựu bộ trưởng đã đồng ý.

Cuối giờ chiều cùng ngày, đại diện VKS đề nghị xét hỏi ông Nguyễn Bắc Son. “Quá trình điều tra, cơ quan điều tra có thực hiện ghi âm, ghi hình khi hỏi cung bị cáo không?”. Ông Son xác nhận máy ghi âm, ghi hình có hoạt động.

Đại diện VKS tiếp tục truy bị cáo về lời khai sau khi nhận 3 triệu USD từ Phạm Nhật Vũ. Ông Son đã đưa tiền cho con gái và dặn con không được đầu tư vào đâu, không được gửi tiết kiệm.

“Hôm đó tôi có khai như thế”, ông Son đáp lời công tố viên nhưng viện lý do lúc đó, do tình hình sức khỏe của ông không tốt nên mới nói điều đó.

Kiểm sát viên lập tức ngắt lời bị cáo và hỏi lý do vì sao ông lại xin rút và thay đổi lời khai về số tiền 3 triệu USD vào chiều 17/12. Trả lời đại diện VKS, ông Son nói rằng do lúc đó, ông nghĩ mình trả lời chưa đúng vào sáng 17/12 nên chiều cùng ngày, ông mới thừa nhận đã cầm 3 triệu USD.

Bị cáo xác định lại số tiền 3 triệu USD đã sử dụng vào những việc gì? Kiểm sát viên tiếp tục truy vấn nhưng cựu Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông trả lời: “Tôi không nhớ rõ”. Đề cập lời khai về việc nhận hối lộ 3 triệu USD, ông Son mong HĐXX cho gặp gia đình và con gái để thống nhất phương án khắc phục hậu quả.

Chủ tọa cho biết để tạo điều kiện cho bị cáo Son gặp gia đình bàn việc khắc phục hậu quả, tòa nghỉ làm việc ngày 19/12. Phiên tòa tiếp tục vào sáng 20/12.


Cựu bộ trưởng Thông tin và Truyền thông nói rằng ngoài yếu tố chủ quan là nhận thức chưa đầy đủ, sai phạm xảy ra còn do một số yếu tố khách quan như việc MobiFone vừa tách khỏi VNPT. Lãnh đạo đơn vị mới được bổ nhiệm nên khó tránh khỏi sai sót khi làm dự án lớn. Đây cũng là lần đầu tiên Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo doanh nghiệp thực hiện dự án.

Ông Son nói bản thân không có kinh nghiệm về tài chính, bận nhiều việc khác nên tin vào sự hướng dẫn của các bộ ngành và cơ quan tham mưu.

Cựu bộ trưởng mong VKSND, HĐXX xem xét các yếu tố để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và cán bộ cấp dưới.

Trước khi dừng lời, ông Son một lần nữa khẳng định trong vụ án này không có ai là chủ mưu, cầm đầu. Thẩm phán Trương Việt Toàn sau đó nói rằng phần trình bày của ông Nguyễn Bắc Son không khác nhiều so với lời khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo đã nêu được bản chất vấn đề, thừa nhận trách nhiệm cá nhân. HĐXX sẽ đánh giá mức độ, nguyên nhân khách quan, chủ quan khi đưa ra phán quyết.

Cũng trong phiên tòa chiều 18/12, nhóm luật sư bào chữa tiếp tục xét hỏi các bị cáo là cựu sếp MobiFone liên quan đến việc ký các văn bản, hợp đồng trong thương vụ mua cổ phần AVG.

Trả lời luật sư Hoàng Văn Hướng (bào chữa cho bị cáo Nguyễn Mạnh Hùng – cựu Phó tổng giám đốc MobiFone), bị cáo Phạm Thị Phương Anh (cựu Phó tổng giám đốc MobiFone) chấp nhận các quan điểm truy tố của VKSND Hà Nội. Ngoài các nội dung mới, nữ bị cáo đề nghị luật sư tham khảo những gì bà đã trả lời trong phần xét hỏi của HĐXX trước đó.

Khi luật sư đề nghị bị cáo trình bày việc ký phê duyệt các phương án kinh doanh, tình hình tài chính của AVG, bà Phương Anh xin giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra và từ chối nhắc lại.

“Hôm nay đứng ở đây và cả trong quá trình điều tra, tôi luôn cố gắng nói lên sự thật về vai trò của mình và không làm ảnh hưởng tới đồng nghiệp của tôi, không để cấp dưới của tôi phải vất vả”, nữ bị cáo nói.

Ong Nguyen Bac Son khong nho tieu 3 trieu USD vao viec gi hinh anh 3 ttxvnluat_su2.jpg
Bên trong hội trường xét xử vụ AVG. Ảnh: TTXVN.
Đề cập hậu quả vụ án đã xảy ra, người phụ nữ nói rằng “đau xót lắm” và giãi bày, đối với những người từng là lãnh đạo bị truy tố, bà có suy nghĩ ai cũng đau đáu và cùng mong muốn được hưởng khoan hồng của pháp luật.

“Chúng tôi mong được làm người công dân có ích, làm người con có hiếu với bố mẹ và có thể để cho con mình học tập được điều gì đó”, bà Phương Anh nói và chực khóc.

Tiếp đó, bị cáo đề đạt nguyện vọng mong HĐXX, đại diện VKS xem xét, thấu hiểu những gì bà và các bị cáo đã khai.

“Bị cáo đã cố gắng khai báo thành thực, cùng mọi người chung tay khắc phục hậu quả mình gây ra”, Phương Anh khóc và nói trước bục gỗ. Sau đó, luật sư tạm dừng xét hỏi để bị cáo trở lại chỗ ngồi.

Theo cáo trạng, Phạm Thị Phương Anh là Phó giám đốc phụ trách tài chính, kế toán và Tổ trưởng tổ giúp việc, đàm phán trong thương vụ mua cổ phần AVG.

Bị cáo biết rõ năng lực tài chính yếu kém của AVG, kinh doanh thua lỗ kéo dài nhưng bà cùng Ban tổng giám đốc vẫn ký quyển dự án để trình Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét, phê duyệt dự án. Bị cáo còn tham gia ký khống biên bản họp Ban tổng giám đốc ngày 24/12/2015.

    Nguồn : news.zing.vn

Yêu cầu tăng tiền cấp dưỡng cho con sau ly hôn

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Yêu cầu tăng tiền cấp dưỡng cho con sau ly hôn

Câu hỏi khách hàng:

Chào Luật sư! Tôi và chồng ly hôn từ năm 2015, đã thỏa thuận tôi trực tiếp nuôi con, bố cháu chu cấp mỗi tháng 3 triệu cho cháu. Hiện tại cháu đã lớn, nhu cầu ăn – học cũng tăng. Tôi muốn bố cháu tăng tiền cấp dưỡng hàng tháng thêm 1 triệu nữa có được không? Nếu được thì thủ tục thế nào ạ? Cảm ơn LS

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014;

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015

– Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Thứ nhất, bạn được yêu cầu tăng tiền cấp dưỡng nuôi con

Căn cứ Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Mức cấp dưỡng:

“Điều 116. Mức cấp dưỡng

  1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
  2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”

Theo đó, pháp luật hiện hành không quy định mức cấp dưỡng cụ thể, không có giới hạn của số tiền phải cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng tùy thuộc vào thu nhập, khả năng thực tế của người phải cấp dưỡng và cả nhu cầu thiết yếu của con.

Điều này có nghĩa là, khi thu nhập của người phải cấp dưỡng tăng hoặc nhu cầu thiết yếu của con – người được cấp dưỡng tăng thì mức cấp dưỡng có thể được điều chỉnh tăng theo.

Thứ hai, làm thế nào để được tăng tiền cấp dưỡng cho con?

Có 02 cách để yêu cầu được tăng mức cấp dưỡng nuôi con khi đã giải quyết xong việc ly hôn:

Cách 1: Thỏa thuận với người cấp dưỡng về việc tăng tiền cấp dưỡng nuôi con.

Cách 2: Nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết (theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015).

Để được tăng tiền cấp dưỡng nuôi con thì người đang nuôi dưỡng trực tiếp phải có lý do chính đáng. Ví dụ như: Chi phí tối thiểu cho sinh hoạt, học tập của con đã tăng lên và khả năng thực tế của người đang nuôi con khó đáp ứng được; Thu nhập của người phải cấp dưỡng tăng lên đáng kể… Người có yêu cầu tăng tiền cấp dưỡng phải cung cấp cho Tòa án những chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó.

Nếu được Tòa án xem xét và chấp nhận thì mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Thực tế, việc tự thỏa thuận tăng tiền cấp dưỡng là không dễ dàng, thậm chíi nhiều trường hợp việc cấp dưỡng theo bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án còn không được thi hành đầy đủ.

Trường hợp bản án, quyết định giải quyết việc ly hôn, việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con và bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng người phải cấp dưỡng không tự nguyện thi hành án đầy đủ (cấp dưỡng nuôi con) thì bên nhận cấp dưỡng có thể làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án đối với phần cấp dưỡng nuôi con trong bản án, quyết định đó. Đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự 2015.

Tài liệu gửi kèm theo Đơn khởi kiện yêu cầu tăng tiền cấp dưỡng thường gồm:

– Bản án hoặc quyết định của Tòa án đã giải quyết cho ly hôn;

– Bản sao sổ hộ khẩu hoặc CMND;

– Giấy tờ chứng minh về thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng (nếu có);

– Giấy tờ chứng minh về chi phí tối thiểu cho sinh hoạt, học tập của con đã tăng lên, khả năng thực tế của người đang nuôi con khó đáp ứng được (nếu có).

Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

“1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.

  1. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
  2. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
  3. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
  4. Tranh chấp về cấp dưỡng.
  5. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
  6. Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật.
  7. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.”

Khoản 2 Điều 31 Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-VPQH Luật Thi hành án dân sự quy định về Tiếp nhận, từ chối yêu cầu thi hành án:

“…

  1. Đơn yêu cầu phải có các nội dung sau đây:
  2. a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
  3. b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
  4. c) Tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án;
  5. d) Nội dung yêu cầu thi hành án;

đ) Thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có;

  1. e) Ngày, tháng, năm làm đơn;
  2. g) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm đơn; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân, nếu có.

…”

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Chó nuôi cắn chết người, chủ vật nuôi sẽ bị xử lý như thế nào?

Hiện nay ở Việt Nam chúng ta không hiếm gặp những chú chó được thả rông, không rọ mõm chạy ngoài đường. Trên thực tế có nhiều trường hợp người dân bị chó cắn gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản và không ít trường hợp còn nguy hiểm đến cả tính mạng. Bên cạnh đó, thả rông chó cũng gây mất vệ sinh công cộng, gây cản trở hoặc gây tai nạn đối với người tham gia giao thông.

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư. Tôi có sự việc này muốn hỏi Luật sư, việc người thả cho ra ngoài đường, không rọ mõm mà cắn chết người thì chủ vật nuôi đó sẽ bị xử ly như thế nào? Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Xin cảm ơn Luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Nghị định số 05/2007/NĐ-CP của Chính phủ về phòng, chống bệnh dại ở động vật;

– Thông tư số 07/2016/TT-BNNPTNT quy định về phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn;

– Nghị định số 90/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

2.1. Quy định của pháp Luật về quản lý vật nuôi:

Hiện nay ở Việt Nam chúng ta không hiếm gặp những chú chó được thả rông, không rọ mõm chạy ngoài đường. Trên thực tế có nhiều trường hợp người dân bị chó cắn gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản và không ít trường hợp còn nguy hiểm đến cả tính mạng. Bên cạnh đó, thả rông chó cũng gây mất vệ sinh công cộng, gây cản trở hoặc gây tai nạn đối với người tham gia giao thông.

Thực tế người dân hiểu biết về quy định quản lý vật nuôi ở Việt Nam còn rất thấp. Pháp luật Việt Nam hiện nay cũng đã quy định về việc quản lý vật nuôi, cụ thể như sau:

Theo điều 6, Nghị định số 05/2007/NĐ-CP ngày 9-1-2007 quy định:

“Điều 6. Nuôi chó

Chủ nuôi chó phải thực hiện các quy định sau đây:

  1. Đăng ký việc nuôi chó với Ủy ban nhân dân cấp xã tại các đô thị, nơi đông dân cư.
  2. Xích, nhốt hoặc giữ chó; đảm bảo vệ sinh thú y, vệ sinh môi trường, không ảnh hưởng tới người xung quanh. Ở nơi công cộng, nơi đông dân cư, khu đô thị khi đưa chó ra ngoài, phải nhốt, giữ chó trong chuồng, cũi hoặc phải rọ mõm và có người dắt…”

Theo Mục 2, Phụ lục 15, Thông tư số 07/2016/TT-BNNPTNT ngày 31-5-2016 của Bộ NN-PTNT quy định:

  1. Quy định về quản lý chó, mèo nuôi để phòng bệnh Dại

2.1. Đối với chủ nuôi chó, mèo (gọi chung là chủ vật nuôi)

  1. a) Phải đăng ký việc nuôi chó với Ủy ban nhân dân cấp xã tại các đô thị, nơi đông dân cư;
  2. b) Xích, nhốt hoặc giữ chó trong khuôn viên gia đình; bảo đảm vệ sinh môi trường, không ảnh hưởng xấu tới người xung quanh. Khi đưa chó ra nơi công cộng phải bảo đảm an toàn cho người xung quanh bằng cách đeo rọ mõm cho chó hoặc xích giữ chó và có người dắt;
  3. c) Nuôi chó tập trung phải bảo đảm điều kiện vệ sinh thú y, không gây ồn ào, ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh;
  4. d) Chấp hành tiêm vắc-xin phòng bệnh Dại cho chó, mèo theo quy định;

đ) Chịu mọi chi phí trong trường hợp có chó thả rông bị bắt giữ, kể cả chi phí cho việc nuôi dưỡng và tiêu hủy chó. Trường hợp chó, mèo cắn, cào người thì chủ vật nuôi phải bồi thường vật chất cho người bị hại theo quy định của pháp luật.

2.2. Xử phạt hành chính trong lĩnh vực thu ý (xử phạt liên quan đến chó):

Điều 7, Nghị định số 90/2017/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y

Điều 7. Vi phạm về phòng bệnh động vật trên cạn

  1. Phạt tiền từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
  2. a) Không tiêm phòng vắc xin phòng bệnh Dại cho động vật bắt buộc phải tiêm phòng;
  3. b) Không đeo rọ mõm cho chó hoặc không xích giữ chó, không có người dắt khi đưa chó ra nơi công cộng…

Như vậy: Hiện nay pháp luật Việt Nam cũng quy định khá chi tiết về việc quản lý vật nuôi, trong đó có chó. Ví dụ như: Chủ nuôi chó phải đăng ký với UBND xã, xích, nhốt hoặc giữ chó trong khuôn viên gia đình; bảo đảm vệ sinh môi trường, không ảnh hưởng xấu tới người xung quanh, Ở nơi công cộng, nơi đông dân cư, khu đô thị khi đưa chó ra ngoài, phải nhốt, giữ chó trong chuồng, cũi hoặc phải rọ mõm và có người dắt…

Nhưng thực tế hiện nay việc thực hiện các quy định trên vẫn còn rất nhiều bất cập. Hầu hết chủ vật nuôi chưa thực hiện các quy định trên, để xảy ra các vụ việc thương tâm như để cho cắn chết người.

2.3. Truy cứu trách nhiệm hình sự:

Việc để chó cắn chết người, chủ vật nuôi tùy theo các trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chủ vật nuôi có thể bị truy cứu theo điều 295, Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Điều 295. Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người

  1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
  2. a) Làm chết người;
  3. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  4. c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
  5. d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
  6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
  7. a) Làm chết 02 người;
  8. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
  9. c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
  10. d) Là người có trách nhiệm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người.
  11. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 12 năm:
  12. a) Làm chết 03 người trở lên;
  13. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
  14. c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
  15. Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
  16. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.

Ngoài ra, chủ vật nuôi sẽ phải bồi thường cho người bị hại theo quy định taih điều 591, Bộ Luật dân sự 2015:

Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

– Thiệt hại khác do luật quy định.

– Và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Mua bán xe bằng giấy tờ viết tay có hợp pháp không?

Mua bán xe bằng giấy tờ viết tay có hợp pháp không? Thủ tục sang tên chuyển nhượng xe khi mua bán hợp đồng không công chứng.

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Mua bán xe bằng giấy tờ viết tay có hợp pháp không?

Câu hỏi khách hàng:

Em chào Luật sư, Luật sư làm ơn tư vấn giúp em 1 vấn đề như sau ạ: chuyện là thằng em ở làng em có bán xe cho em. Chỉ có giấy viết tay của em và nó, được 2 – 3 hôm nó lên mượn lại xe, em cho mượn nó chưa trả thì nó đi lính, em xuống lấy xe thì gia đình nó không trả còn bán mất xe, Luật sư bảo em phải làm sao ạ? Em xin chân thành cảm ơn

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04 tháng 4 năm 2014 Quy định về đăng ký xe.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Bạn mua xe của một người em, như vậy hợp đồng mua bán giữa bạn vào người bán xe là hợp đồng dân sự. Theo quy định của pháp luật dân sự, hợp đồng dân sự có thể được giao kết bàng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Nếu hợp đồng đó được quy định phải thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực thì phải tuần theo

Tại điểm g khoản 1 Điều 10 Thông tư số 15/2014/TT-BCA Quy định về giấy tờ của xe như sau:

“Điều 10. Giấy tờ của xe

  1. Chứng từ chuyển quyền sở hữu xe, gồm một trong các giấy tờ sau đây:
  2. a) Quyết định bán, cho, tặng hoặc hợp đồng mua bán theo quy định của pháp luật.
  3. b) Văn bản thừa kế theo quy định của pháp luật.
  4. c) Hóa đơn bán hàng theo quy định của Bộ Tài chính.
  5. d) Văn bản của cấp có thẩm quyền đồng ý thanh lý xe theo quy định (đối với xe Công an); của Bộ Tổng tham mưu (đối với xe Quân đội).

đ) Văn bản đồng ý cho bán xe của Bộ trưởng hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây viết gọn là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị doanh nghiệp kèm theo hợp đồng mua bán và bản kê khai bàn giao tài sản đối với xe là tài sản của doanh nghiệp nhà nước được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê.

  1. e) Quyết định phân bổ, điều động xe của Bộ Công an (xe được trang cấp) hoặc chứng từ mua bán (xe do các cơ quan, đơn vị tự mua sắm) đối với xe máy chuyên dùng phục vụ mục đích an ninh của Công an nhân dân.
  2. g) Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực.

Trường hợp chủ xe là cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân, Quân đội nhân dân hoặc cá nhân nước ngoài làm việc trong cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà đăng ký xe theo địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác thì phải có xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.”

Theo quy định trên, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp này là giấy tờ bán xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Bạn mua xe nhưng chỉ làm giấy tờ viết tay mà không có công chứng, chứng thực, như vậy hợp đồng giao dịch dân sự này sẽ bị coi là vô hiệu do vi phạm về mặt hình thức.

Điều 129 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về mặt hình thức thì vô hiêu, trừ trường hợp:

+ Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

+ Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 là không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Và khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nghĩa là, bạn sẽ trả lại xe cho người bán và người bán trả lại đầy đủ tiền cho bạn.

Trường hợp này bạn có quyền yêu cầu người bán trả lại tiền cho bạn, nếu không trả bạn có thể làm đơn khởi kiện gửi tới Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi người này cư trú để yêu cầu giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế?

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư, tôi có mở quan xoa bóp, bấm huyệt. Ngày 12/04/2019 cơ sở kinh doanh của tôi bị đoàn kiểm tra của công an huyện xuống kiểm tra. Cơ sở của tôi bị lập biên bản vi phạm hành chính về lỗi Không có tủ thuốc cấp cứu theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 32 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP.

Ngày 22/04/2019 tôi nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt là 2.500.000 đồng do bên Công an Huyện gửi về. Tôi muốn hỏi luật sư về việc các anh công an huyện lập biên bản và xử phạt tôi như vậy có đúng hay không? Vì theo tôi việc xử phạt vi phạm hành chính về y tế phải do sở y tế xử phạt chứ không phải do cơ quan công an xử phạt.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012;

– Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính nói chung, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính có quy định như sau:

“Điều 3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính

  1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
  2. a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
  3. b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;”

Xét về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, theo quy định tại khoản 1 Điều 94 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, người có thẩm quyền xử phạt sẽ có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính.

Chương 3 Nghị định 176/2013/NĐ-CP có quy định về người có thẩm quyền xử phạt tiền đối với hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế gồm có: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; Thanh tra viên, Chánh Thanh tra Sở Y tế và Chi Cục trưởng Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế, Chánh Thanh tra Bộ và Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, Cục trưởng Cục Quản lý dược, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp bộ; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp sở, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; Kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường, Chi Cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương, Trưởng phòng chống buôn lậu, Trưởng phòng chống hàng giả, Trưởng phòng kiểm soát chất lượng hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường, Chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ; Trưởng công an cấp xã, huyện; Giám đốc công an tỉnh,…

Theo quy định trên, lực lượng công an nhân dân cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, phạm vi xử phạt cụ thể được quy định tại Điều 92 như sau:

“4. Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ có quyền:

  1. a) Phạt cảnh cáo;
  2. b) Phạt tiền đến 6.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính về dân số và đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá;”

Đối chiếu với quy định trên, lực lượng công an nhân dân có thẩm quyền xử phạt vi phạm về hành chính trong lĩnh vự y tế tuy nhiên, chỉ giới hạn ở việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm về: Chính sách dân số và vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá. Trong khi đó, hành vi vi phạm của anh là vi phạm quy định về điều kiện hành nghề xoa bóp thuộc mục hai – Hành vi vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh. Và theo chương 3, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khám chữa bệnh là của Ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra y tế và Quản lý thị trường.

Do vậy, việc công an không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng lại lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về khám chữa bệnh, thậm chí ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này là không đúng thẩm quyền.

Đối với việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bạn, bạn có thể thực hiện việc khiếu nại theo quy định lên chính thủ trưởng đơn vị của người ban hành ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó. Nếu quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định mà họ không giải quyết hoặc giải quyết không đúng thì bạn có thể làm đơn khiếu nại lên người có thẩm quyền cao hơn để yêu cầu giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng