Câu hỏi:
Anh J.H.Z là người nước ngoài có gửi câu hỏi đến Công ty luật được tạm dịch như sau:
Tôi và Công ty A ở Việt Nam có ký kết hợp đồng tại Việt Nam theo đó Công ty A, theo nội dung hợp đồng thì Công ty A sẽ xin cấp Giấy phép lao động cho tôi, và tôi phải cam kết làm việc cho Công ty A sau đó liên tục 5 năm. Nếu không làm việc cho Công ty A thì tôi phải bồi thường cho Công ty A số tiền để xin Giấy phép lao động cho tôi là 46.266 Việt Nam đồng (tương đương 2.000 đô la Mỹ).
Vì tôi đã kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam nên tôi không thuộc diện cấp Giấy phép lao động. Tôi cũng không làm việc cho Công ty A.
Công ty A yêu cầu tôi bồi thường vì đã không thực hiện nghĩa vụ làm việc theo hợp đồng.
Tôi xin hỏi, yêu cầu đòi bồi thường của Công ty A là có cơ sở không?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
- Cơ sở pháp lý
– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;
– Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ;
– Án lệ số 39/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13 tháng 08 năm 2020 và được công bố theo Quyết định 276/QĐ-CA ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
– Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14;
- Nội dung
Yêu cầu đòi bồi thường của Công ty A là không có cơ sở.
- Nội dung cơ bản của của Án lệ số 39/2020/AL về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện không thể xảy ra
Án lệ số 39/2020/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13/8/2020 và được công bố theo Quyết định 276/QĐ-CA ngày 02/10/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nội dung cơ bản của Án lệ số 39 /2020/AL :
“[1]…Như vậy, có cơ sở xác định cụ C đã thỏa thuận bán một phần căn nhà số 182 đường A đang thuê của Nhà nước cho bà C1 với điều kiện khi cụ C được Nhà nước hóa giá, hay nói cách khác, giao dịch giữa cụ C và bà C1 là giao dịch dân sự có điều kiện, khi nào cụ C được Nhà nước bán hóa giá nhà thì giao dịch phát sinh hiệu lực. Điều 23 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 quy định: “Trong trường hợp các bên thỏa thuận về một sự kiện là điều kiện thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng, thì khi sự kiện đó xảy ra, hợp đồng phải được thực hiện hoặc chấm dứt”. Điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng tuy không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nhưng trong phần nhà đất cụ C thỏa thuận chuyển nhượng cho bà C1 có diện tích 42,74m2 nằm trong lộ giới, Nhà nước không hóa giá và không công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của cụ C cho nên phần lớn điều kiện đó không xảy ra. Vì vậy, sự thỏa thuận giữa cụ C với bà C1 không phát sinh hiệu lực, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên vô hiệu là có căn cứ.”
Trường hợp này, phải xác định hợp đồng kí kết giữa cụ C và bà C1 là vô hiệu.
Căn cứ vào Án lệ nêu trên, đối với những trường hợp đáp ứng đủ các tình tiết dưới đây thì xác định hợp đồng có điều kiện là vô hiệu:
Tình tiết cơ bản của của
– Hợp đồng thuộc dạng hợp đồng có điều kiện;
– Điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng tuy không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
– Điều kiện được thỏa thuận là không thể xảy ra;
- 2. Hợp đồng thuộc dạng hợp đồng có điều kiện
Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật Dân sự thì:
“Điều 120. Giao dịch dân sự có điều kiện
- Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ…”
Như vậy. có cơ sở để cho rằng Hợp đồng giữa anh và công ty là hợp đồng có điều kiện.
- 3. Điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng tuy không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội
Điều kiện ở đây là sự kiện công ty hoàn tất xin Giấy phép lao động cho anh thì anh có nghĩa vụ phải làm việc tại công ty.
Người nước ngoài lao động trên lãnh thổ Việt Nam được đối xử như công dân Việt Nam theo nguyên tắc Đối xử quốc gia (National Treatment), nếu công dân Việt Nam được lao động trên lãnh thổ Việt Nam ở những công việc phù hợp thì người nước ngoài cũng được phép. Ở Việt Nam, doanh nghiệp có trách nhiệm xin Giấy phép lao động cho người nước ngoài nếu muốn sử dụng lao động là người nước ngoài.
Do đó, điều kiện xin Giấy phép lao động và nghĩa vụ làm việc là phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy, điều kiện xin Giấy phép lao động và nghĩa vụ làm việc là phù hợp với quy định của pháp luật.
- 4. Điều kiện được thỏa thuận là không thể xảy ra
Theo quy định tại khoản 8 Điều 154 Bộ luật Lao động thì trường hợp người lao động nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động:
“Điều 154. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động
…
- Người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
…”
Như vậy, điều kiện xin cấp Giấy phép lao động cho anh là không thể xảy ra.
- Việc áp dụng án lệ trong xét xử
Việc áp dụng án lệ trong xét xử phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ:
“Điều 8. Áp dụng án lệ trong xét xử
Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.
Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”
Như vậy, để được áp dụng án lệ vào vụ án này thì nội dung vụ án phải có tình huống tương tự án lệ.
Trong câu hỏi anh gửi đến Công ty luật thì hợp đồng kí kết giữa Công ty A và anh là vô hiệu.
Vậy, hợp đồng kí kết giữa Công ty A và anh là vô hiệu nên yêu cầu đòi bồi thường do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là không có cơ sở.
Trên đây là nội dung quy định về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện không thể xảy ra xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do điều kiện không thể xảy ra . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com