Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại, vì lợi ích của pháp nhân thương mại, có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS.

Theo đó, pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi phạm tội thỏa mãn các điều kiện:

  • Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại

Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại là hành vi của một người hoặc một số người nhân danh tổ chức kinh tế được xác định là pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Trường hợp tổ chức kinh tế không  là pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội của họ không phải là hành vi của pháp nhân thương mại.

Tuy nhiên, nếu một người được pháp nhân thương mại ký hợp đồng hay uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân thương mại giao và khi thực hiện họ nhân danh pháp nhân thương mại đã ký hợp đồng hoặc uỷ quyền cho họ thì hành vi phạm tội của người này vẫn là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại mà họ ký hợp đồng hoặc được uỷ quyền.

  • Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại

Khi một người hoặc một số người thực hiện hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại giao hoặc uỷ quyền đều vì lợi ích của pháp nhân thương mại chứ không vì lợi ích cá nhân của họ. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội họ lại lợi dụng pháp nhân thương mại để thực hiện thêm hành vi vì lợi ích cá nhân thì chỉ hành vi nào vì lợi ích của pháp nhân thương mại mới buộc pháp nhân thương mại phải chịu, còn hành vi nào vượt ra ngoài lợi ích của pháp nhân thương mại mà vì lợi ích cá nhân họ thì họ phải chịu. Có thể nói, đây là một dạng hành vi “vượt quá của người thực hành” trong vụ án mà pháp nhân thương mại phạm tội.

  • Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại

Hành vi phạm tội của một hoặc một số người phải có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Sự chỉ đạo điều hành là sự chỉ đạo của những người đứng đầu hoặc của một tập thể pháp nhân thương mại như: Giám đốc, Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc của công ty.

Sự chỉ đạo, điều hành này cũng tương tự như trường hợp phạm tội có tổ chức mà người tổ chức là người chỉ đạo điều hành mọi hành vi của tất cả các đồng phạm khác. Ngoài sự chỉ đạo, điều hành của những người nhân danh pháp nhân thương mại còn có trường hợp tuy không có sự chỉ đạo, điều hành nhưng lại có sự chấp thuận của những người đứng đầu pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội cũng là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại.

  • Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS năm 2015 tuỳ thuộc vào tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc xác định thế nào là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại khoản 2 Điều 9 BLHS năm 2015. Điều luật này đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015.

Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội

Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội thông qua gày 27 tháng 11 năm 2015;
  • Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13

Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2017:

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

  1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội cụ thể.

* Về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội:

Theo quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015, việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

  1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội

Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

  1. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
  2. a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
  3. b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
  4. c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
  5. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
  6. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
  7. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
  8. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

  1. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

* Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Theo quy định tại Điều 98 BLHS năm 2015, người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.

Đối với hình phạt tù có thời hạn, khi áp dụng cần đảm bảo quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015. Cụ thể như sau:

– Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

– Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trách nhiệm chi trả viện phí khi xảy ra tai nạn lao động

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn liên quan đến trách nhiệm chi trả viện phí khi có tai nạn lao động xảy ra

Hỏi: Xin chào các Luật sư. Tôi có vấn đề sau mong được các Luật sư tư vấn. Ngày 25/6 vừa qua, tôi bị tai nạn lao động tại nơi làm việc, chi phí điều trị hết 20 triệu. Tuy nhiên, phía công ty không chi trả cho tôi với lý do vụ tai nạn là do tôi gây ra. Vậy các Luật sư cho hỏi phía công ty làm như vậy có đúng ko? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012;

– Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014;

  1. Luật sư tư vấn:

Tại Điều 144 và Điều 145 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động cũng như quyền của người lao động khi bị tai nạn lao động như sau:

–  Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:

  1. 1Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.
  2. Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.
  3. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động,

–  Quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

  1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.
  2. Người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội, thì được người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.
  3. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau:
  4. a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng

tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;

  1. b) Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.

–  Trường hợp do lỗi của người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định trên.

Như vậy trong trường hợp tai nạn lao động người sử dụng lao động có trách nhiệm hanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.

Bên cạnh đó, nếu vụ tai nạn lao động không do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động nếu người lao động bị suy giảm từ 5% khả năng lao động trở lên. Còn trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động vẫn phải trợ cấp cho người lao động với mức tổi thiểu bằng 40% so với trường hợp không có lỗi của người lao động.

Như vậy, trong trường hợp của bạn, 20 triệu tiền viện phí sẽ do bảo hiểm y tế và phía công ty đồng chi trả mà không cần xét đến yếu tố lỗi thuộc về ai. Bên cạnh đó, công ty cũng phải trả cho bạn số tiền lương tương ứng trong thời gian bạn điều trị.

Trường hợp bạn bị suy giảm 5% khả năng lao động trở lên, thì người lao động còn có trách nhiệm bồi thường cho bạn như đã nói ở trên.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tư vấn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ do con cái gây ra

Cha mẹ có nghĩa vụ giáo dục, quản lý con vì vậy trong một số trường hợp khi con gây ra thiệt hại thì cha mẹ cũng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho con. Vậy quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào? Sau đây Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn liên quan đến vấn đề này như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014.

  1. Luật sư tư vấn

Khoản 5 Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về một trong những nghĩa vụ chung của vợ chồng là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.

Theo Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự.

Dẫn chiếu Bộ luật Dân sự năm 2015, theo quy định tại Điều 586 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:

“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

  1. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

  1. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”

Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Đây là những người chưa đủ năng lực hành vi dân sự.

Xuất phát từ vai trò trách nhiệm của cha, mẹ dạy dỗ giáo dục con cái nên trong trường hợp con chưa đủ 15 tuổi thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu như tài sản cha, mẹ không đủ để bồi thường nếu con có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Tuy nhiên, trong thời gian trường học đang quản lý trực tiếp nhưng có lỗi trong việc quản lý người dưới 15 tuổi để người đó gây ra thiệt hại thì trường học có trách nhiệm bồi thường thiệt hại (điều 599 Bộ luật Dân sự năm 2015)

Đối với trường hợp người đủ 15 tới 18 tuổi nếu có tài sản riêng thì họ có thể tự mình xác lập các giao dịch dân sự mà nghĩa vụ của nó cho phép thực hiện trong phạm vi tài sản của họ, do vậy trường hợp họ gây ra thiệt hại họ có trách nhiệm dùng tài sản riêng đó của mình để thực hiện bồi thường thiệt hại, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì khi đó cha, mẹ mới phải bồi thường bằng tài sản còn thiếu của mình. Có sự khác biệt so với trường hợp trên là do những người này cũng đã có nhận thức được một phần về hành vi của mình nhưng chưa đầy đủ nên việc pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo những đối tượng này cần phải cân nhắc và có trách nhiệm đối với hành vi của chính bản thân họ.

Trường hợp người chưa thành niên gây ra thiệt hại không còn cha mẹ thì người giám hộ của họ có trách nhiệm được dùng tài sản của người chưa thành niên (nếu có) để bồi thường, còn người chưa thành niên không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của con (trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được họ không có lỗi trong việc giám hộ người gây thiệt hại).

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trách nhiệm chịu rủi ro khi được nhờ đứng tên công ty

Trách nhiệm chịu rủi ro khi được nhờ đứng tên công ty. Rủi ro của việc người đứng tên thay trong đăng ký kinh doanh như thế nào?

Tóm tắt câu hỏi:

Luật sư cho Tôi hỏi? Em tôi có 1 công ty nhờ đứng tên làm giám đốc công ty cổ phần, công ty đó hoạt động xuất khẩu lao động. Ông chủ là chủ tịch hội đồng quản trị, ông chủ bị bắt về tội tổ chức cho người trốn đi nước ngoài trái phép, ngoài đứng tên công ty Em tôi không ký và nhận bất cứ khoản tiền công nào và không biết hoạt của công ty, vậy Em tôi có phải chịu hình sự gì không? Cám ơn Luật sư.

Luật sư tư vấn:

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Luật Hiệp Thành. Với thắc mắc của bạn, Luật Hiệp Thành xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:

  1. Căn cứ pháp lý:

– Luật Doanh Nghiệp 2014;

– Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017;

  1. Nội dung tư vấn:

Về việc em bạn được nhờ đứng tên là Giám đốc Công ty cổ phần:

Giám đốc (Tổng giám đốc) Công ty cổ phần là người được Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc được thuê. Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.

Tại khoản 3 điều 157 Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của Giám đốc (Tổng giám đốc) như sau:

“3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

  1. a) Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị;
  2. b) Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị;
  3. c) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;
  4. d) Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty;

đ) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị;

  1. e) Quyết định tiền lương và quyền lợi khác đối với người lao động trong công ty kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
  2. g) Tuyển dụng lao động;
  3. h) Kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
  4. i) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị quyết của Hội đồng quản trị.”

Do em bạn được nhờ đứng tên làm giám đốc công ty cổ phần tuy không ký và nhận bất cứ khoản tiền công nào và không biết hoạt động của công ty thì vẫn phải chịu trách nhiệm điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì em bạn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.

Do đó em bạn chỉ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của công ty liên quan đến quyền và nhiệm vụ được giao.

Về việc ông Chủ tịch Hội đồng quản trị bị bắt về tội Tổ chức đưa người ra nước ngoài trái phép quy định tại Điều 275 Bộ Luật Hình Sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:

Bạn không đề cập tới việc em bạn có cùng với ông Chủ tịch Hội đồng quản trị tổ chức đưa người ra nước ngoài trái phép hay không nên không thể xác định ngay được em bạn có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.

Nếu em bạn có sự câu kết chặt chẽ với ông Chủ tịch Hội đồng quản trị, cùng nhau thực hiện tội phạm thì em bạn được xác định là đồng phạm theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự:

“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

  1. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
  2. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

  1. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”

Như vậy, nếu em bạn là đồng phạm, tham gia với vai trò là người tổ chức, người thực hành, người xúi giục hoặc là người giúp sức thì em bạn cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức đưa người ra nước ngoài trái phép. Và phải xem xét em bạn có phải là người đại diện theo pháp luật không? nếu là người đại diện theo pháp luật thì sẽ phải có những trách nhiệm phát sinh.Tuy nhiên, bạn chưa nêu rõ cụ thể sự việc nên bạn có thể tham khảo những ý kiến tư vấn trên để xác định trường hợp của mình.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Vô ý làm chết người thì phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Luật Hiệp Thành tư vấn quy định pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người.

Kính gửi Luật sư, tôi có một vấn đề mong nhận được sự tư vấn từ luật sư. Tôi có một người bạn tạm gọi là ông A, ông A này do để phòng chống trộm nên đã có hành vi đặt hàng rào bằng điện xung quanh nông trại của mình. Và không may có người cố tình vào nông trại của ông A nên đã bị điện giật và chết.

Nhờ luật sư tư vấn giúp tôi là ông A sẽ phải chịu trách nhiệm những gì? Mong nhận được phản hồi sớm từ luật sư để bạn tôi biết hướng giải quyết. Tôi xin cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý: 

– Bộ luật hình sự Luất số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015.

– Bộ luật dân sự luật số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Ông A sẽ phải chịu những trách nhiệm sau:

Trách nhiệm hình sự:

Điều 128 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“Điều 128. Tội vô ý làm chết người

  1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
  2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”

Chúng tôi xin được phân tích điều luật này như sau:

– Mặt khách quan:

+ Hành vi: Thể hiện dưới dạng không hành động: sau khi đào hố lấy đất với độ sâu như vậy, khi nước mưa ngập, ông A phải có những hành động cụ thể nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của người khác. Mặt khác, chủ thể có hành vi đã nhận được nhiều cảnh báo từ những người xung quanh, nhưng vẫn không hành động

+ Hậu quả: 02 người chết

+ Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả: Hành vi đào hố, lấy đất là nguyên nhân dẫn đến việc chết đuổi nước của 02 người

– Mặt chủ quan

– Lỗi vô ý: người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được

+) Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả chết người, đặc biệt là trẻ em.

+) Về ý chí: Người pham tội tuy không mong muốn hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, cho rằng hậu quả không xảy ra. Hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự tính của họ.

– Chủ thể: Chủ thể thực hiện hành vi có đủ NLTNHS

– Khách thể: Đối tượng bị xâm phạm đến: Tính mạng người

Theo căn cứ và phân tích trên thì ông A đã có hành vi vô ý làm chết người. Vì vậy ông A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này. Khung hình phạt áp dụng là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Trách nhiệm dân sự: Bồi thường thiệt hại

Khoản 1, điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác

Đồng thời điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

  1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
  2. a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
  3. b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  4. c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
  5. d) Thiệt hại khác do luật quy định.
  6. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Theo căn cứ trên thì ông A phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại. Số tiền bồi thường thiệt hại sẽ dựa trên các căn cứ sau:

– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

– Thiệt hại khác do luật quy định.

– Và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Người điều khiển xe container gây tai nạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Người điều khiển xe container gây tai nạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Câu hỏi khách hàng:

Con tôi đang đi Honda hướng Sài Gòn đi rất chậm trên làn đường xe máy không ngờ xe Container ở phía sau lù lù tới cúp cua rẽ phải máng vào con tôi, người và xe con tôi lọt vào gầm xe Container, một lát sau xe dừng lại tài xế xuống. Con tôi la đau quá kêu xe cấp cứu đi rút điện thoại ra đưa cho tài xế và đọc số điện thoại của vợ tôi cho tài xế, khi vào bệnh viện con tôi vẫn tỉnh táo. Con tôi bị đa chấn thương phải nằm bệnh viện từ đó cho tới nay. Đến nay đã gần 5 tháng. Bên gây tai nạn xe Containor không chịu thoả thuận đền bù bắt buộc chúng tôi phải đưa ra toà để giải quyết. Vậy Luật Sư cho tôi hỏi: Chúng tôi cần phải làm những loại đơn gì để gửi đến các cơ quan chức năng? Căn cứ vào đâu để kết luận vụ án này là hình sự hay dân sự? Tôi rất mong muốn Luật Sư cho tôi câu trả lời sớm nhất.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo thông tin bạn cung cấp thì con bạn đang lưu thông trên đường thì va chạm với xe container và con bạn bị đa chấn thương phải nằm chữa trị tại bệnh viện. Tuy nhiên để xác định đây là vụ án hình sự hay dân sự thì phải phụ thuộc vào hành vi của người lái xe cantainer có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không? Và bên nào là bên có lỗi khi có sự va chạm trên? Vì thông tin bạn cung cấp không cụ thể, nên có các khả năng có thể xảy ra sau:

Thứ nhất, về việc truy cứu trách nhiệm hình sự:

Theo Điều 260 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  1. a) Làm chết người;
  2. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  3. c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
  4. d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng…”

Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này thì ngươi phạm tội phải có hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, đồng thời gây thiệt hại cho người khác mà thuộc một trong các trường hợp được liệt kê tại điều trên. Đối chiếu với trường hợp của bạn, cần xác định con bạn và người điều khiển xe container có đáp ứng đầy đủ điều kiện tham gia giao thông hay không? Việc xác định lỗi của hai bên sẽ phải căn cứ vào biên bản điều tra tai nạn giao thông, sơ đồ hiện trường tai nạn giao thông từ phía cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Trường hợp hành vi của ngươi điều khiển xe container thỏa mãn những yếu tố cấu thành Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì gia đình bạn có thể làm đơn tố cáo tội phạm gửi đến cơ quan có thẩm quyền (cơ quan công an, ủy ban nhân dân,…) để được giải quyết kịp thời. Trường hợp người đó có hành vi vi phạm lĩnh vực giao thông đường bộ nhưng không đủ yếu tố truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể xử phạt hành chính theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Bạn có thể tham khảo mẫu đơn tại đây: Mẫu đơn tố cáo

Thứ hai, về việc bồi thường thiệt hại:

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy. nếu có thiệt hại về tài sản và sức khỏe đối với con bạn mà hoàn toàn do lỗi của người điểu khiển xe container (không phải do sự kiện bất khả kháng) thì người đó phải bồi thường cho con bạn theo quy định tại Điều 589, Điều 590 Bộ luật dân sự 2015. Cụ thể:

Điều 589. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm

“Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:

  1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
  2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
  3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
  4. Thiệt hại khác do luật quy định.

Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

  1. a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
  2. b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
  3. c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
  4. d) Thiệt hại khác do luật quy định.
  5. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Theo đó, người điều khiển xe container sẽ có thể phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn, mức bồi thường thiệt hại sẽ do các bên tự thỏa thuận dựa vào quy định trên. Trường hợp không tự thỏa thuận được thì gia đình bạn có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người đó cư trú.

Trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn là do lỗi của con bạn thì người điều khiển xe container không có trách nhiệm phải bồi thường cho gia đình bạn. Vì một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là phải có yếu tố lỗi từ phía người gây ra thiệt hại nên nếu ngươi điều khiển xe container không có lỗi gây ra thiệt hại cho con bạn thì không phải bồi thường.

Trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi của con bạn và người điều khiển xe container: Nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự 2015 như sau: “4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.” Theo đó, cả gia đình bạn và người điều khiển xe container đều có phần trách nhiệm bồi thường đối với phần lỗi mà mình gây ra đối với thiệt hại. Mức bồi thường sẽ do các bên thỏa thuận, nếu không tự thỏa thuận được có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong cùng một vụ án.

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Hình sự 100/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 27/11/2015; được sửa đổi bổ sung năm 2017.

  1. Luật sư tư vấn:

2.1. Các loại người trong vụ án đồng phạm

Theo Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định:

Điều 17. Đồng phạm

  1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
  2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
  3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”.

Như vậy, trong vụ án đồng phạm tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức:

– Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Trong đó lưu ý rằng, chỉ trong trường hợp phạm tội có tổ chức mới có người tổ chức. Những hành vi thể hiện người đó là đồng phạm với vai trò là người tổ chức như : thành lập tổ chức phạm tội, đưa ra kế hoạch, biện pháp thực hiện tội phạm, chỉ đạo người khác thực hiện tội phạm, điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm….

– Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Có nghĩa là hành vi của họ phù hợp với miêu tả trong yếu tố khách quan cấu thành tội phạm. Hành vi đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả tác hại. Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiện phạm tội. Dù đồng phạm giản đơn hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành.

– Người xúi giục là người bị kích động, dụ dỗ thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi xúi dụng có thể thể hiện ở các dạng như tác động vào tư tưởng người khác làm người khác nảy sinh ý định phạm tội, dụ dỗ, cưỡng ép…Hành vi xúi giục thực hiện trước khi người thực hành thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi xúi giục phải cụ thể nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể. Nếu như hành vi đó chỉ là lời nói có tính chất thông báo, gợi ý chung chung không cụ thể thì không thể coi là người xúi giục. Trong trương hợp nếu xúi giục người dưới 18 tuổi thì người xúi giục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ” o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” ( điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 ).

– Người giúp sức là người tạo ra những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi của người giúp sức có thể ở dưới dạng như cung cấp công cụ, phương tiện, thông tin cần thiết để thực hiện tội phạm hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội hoặc hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có…Hành vi này không trực tiếp gây thiệt hại cho khách thể mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm.

2.2. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của người đồng phạm

– Thứ nhất, Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự chung

Tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự chung về toàn bộ tội phạm đã gây ra. Luật hình sự quy định những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về một tội phạm mà họ đã thực hiện, đếu áp dụng hình phạt của cùng một tội mà họ thực hiện. Mọi đồng phạm đều bị áp dụng nguyên tắc chung về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xác định hình phạt.

– Thứ hai, nguyên tắc độc lập của trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm:

Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.

Theo đó, mỗi người đồng phạm đều phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập về việc cùng thực hiện tội phạm. Trách nhiệm hình sự độc lập về việc cùng thực hiện tội phạm thể hiện ở chỗ mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đến đâu thì áp dụng trách nhiệm đến đó. Người đồng phạm này không phải chịu trách nhiệm hình sự về sự vượt quá của người đồng phạm khác.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Chó nuôi cắn chết người, chủ vật nuôi sẽ bị xử lý như thế nào?

Hiện nay ở Việt Nam chúng ta không hiếm gặp những chú chó được thả rông, không rọ mõm chạy ngoài đường. Trên thực tế có nhiều trường hợp người dân bị chó cắn gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản và không ít trường hợp còn nguy hiểm đến cả tính mạng. Bên cạnh đó, thả rông chó cũng gây mất vệ sinh công cộng, gây cản trở hoặc gây tai nạn đối với người tham gia giao thông.

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư. Tôi có sự việc này muốn hỏi Luật sư, việc người thả cho ra ngoài đường, không rọ mõm mà cắn chết người thì chủ vật nuôi đó sẽ bị xử ly như thế nào? Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Xin cảm ơn Luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Nghị định số 05/2007/NĐ-CP của Chính phủ về phòng, chống bệnh dại ở động vật;

– Thông tư số 07/2016/TT-BNNPTNT quy định về phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn;

– Nghị định số 90/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

2.1. Quy định của pháp Luật về quản lý vật nuôi:

Hiện nay ở Việt Nam chúng ta không hiếm gặp những chú chó được thả rông, không rọ mõm chạy ngoài đường. Trên thực tế có nhiều trường hợp người dân bị chó cắn gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản và không ít trường hợp còn nguy hiểm đến cả tính mạng. Bên cạnh đó, thả rông chó cũng gây mất vệ sinh công cộng, gây cản trở hoặc gây tai nạn đối với người tham gia giao thông.

Thực tế người dân hiểu biết về quy định quản lý vật nuôi ở Việt Nam còn rất thấp. Pháp luật Việt Nam hiện nay cũng đã quy định về việc quản lý vật nuôi, cụ thể như sau:

Theo điều 6, Nghị định số 05/2007/NĐ-CP ngày 9-1-2007 quy định:

“Điều 6. Nuôi chó

Chủ nuôi chó phải thực hiện các quy định sau đây:

  1. Đăng ký việc nuôi chó với Ủy ban nhân dân cấp xã tại các đô thị, nơi đông dân cư.
  2. Xích, nhốt hoặc giữ chó; đảm bảo vệ sinh thú y, vệ sinh môi trường, không ảnh hưởng tới người xung quanh. Ở nơi công cộng, nơi đông dân cư, khu đô thị khi đưa chó ra ngoài, phải nhốt, giữ chó trong chuồng, cũi hoặc phải rọ mõm và có người dắt…”

Theo Mục 2, Phụ lục 15, Thông tư số 07/2016/TT-BNNPTNT ngày 31-5-2016 của Bộ NN-PTNT quy định:

  1. Quy định về quản lý chó, mèo nuôi để phòng bệnh Dại

2.1. Đối với chủ nuôi chó, mèo (gọi chung là chủ vật nuôi)

  1. a) Phải đăng ký việc nuôi chó với Ủy ban nhân dân cấp xã tại các đô thị, nơi đông dân cư;
  2. b) Xích, nhốt hoặc giữ chó trong khuôn viên gia đình; bảo đảm vệ sinh môi trường, không ảnh hưởng xấu tới người xung quanh. Khi đưa chó ra nơi công cộng phải bảo đảm an toàn cho người xung quanh bằng cách đeo rọ mõm cho chó hoặc xích giữ chó và có người dắt;
  3. c) Nuôi chó tập trung phải bảo đảm điều kiện vệ sinh thú y, không gây ồn ào, ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh;
  4. d) Chấp hành tiêm vắc-xin phòng bệnh Dại cho chó, mèo theo quy định;

đ) Chịu mọi chi phí trong trường hợp có chó thả rông bị bắt giữ, kể cả chi phí cho việc nuôi dưỡng và tiêu hủy chó. Trường hợp chó, mèo cắn, cào người thì chủ vật nuôi phải bồi thường vật chất cho người bị hại theo quy định của pháp luật.

2.2. Xử phạt hành chính trong lĩnh vực thu ý (xử phạt liên quan đến chó):

Điều 7, Nghị định số 90/2017/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y

Điều 7. Vi phạm về phòng bệnh động vật trên cạn

  1. Phạt tiền từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
  2. a) Không tiêm phòng vắc xin phòng bệnh Dại cho động vật bắt buộc phải tiêm phòng;
  3. b) Không đeo rọ mõm cho chó hoặc không xích giữ chó, không có người dắt khi đưa chó ra nơi công cộng…

Như vậy: Hiện nay pháp luật Việt Nam cũng quy định khá chi tiết về việc quản lý vật nuôi, trong đó có chó. Ví dụ như: Chủ nuôi chó phải đăng ký với UBND xã, xích, nhốt hoặc giữ chó trong khuôn viên gia đình; bảo đảm vệ sinh môi trường, không ảnh hưởng xấu tới người xung quanh, Ở nơi công cộng, nơi đông dân cư, khu đô thị khi đưa chó ra ngoài, phải nhốt, giữ chó trong chuồng, cũi hoặc phải rọ mõm và có người dắt…

Nhưng thực tế hiện nay việc thực hiện các quy định trên vẫn còn rất nhiều bất cập. Hầu hết chủ vật nuôi chưa thực hiện các quy định trên, để xảy ra các vụ việc thương tâm như để cho cắn chết người.

2.3. Truy cứu trách nhiệm hình sự:

Việc để chó cắn chết người, chủ vật nuôi tùy theo các trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chủ vật nuôi có thể bị truy cứu theo điều 295, Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Điều 295. Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người

  1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
  2. a) Làm chết người;
  3. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  4. c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
  5. d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
  6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
  7. a) Làm chết 02 người;
  8. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
  9. c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
  10. d) Là người có trách nhiệm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người.
  11. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 12 năm:
  12. a) Làm chết 03 người trở lên;
  13. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
  14. c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
  15. Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
  16. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.

Ngoài ra, chủ vật nuôi sẽ phải bồi thường cho người bị hại theo quy định taih điều 591, Bộ Luật dân sự 2015:

Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

– Thiệt hại khác do luật quy định.

– Và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Xem bói có thể bị truy cứu Trách nhiệm hình sự

Câu hỏi:

Kính gửi Quý luật sư ! Tôi có câu hỏi muốn gửi đến các luật sư như sau:

Ở làng tôi, mọi người truyền tai nhau về bà bói mù chừng 70 tuổi: “Bà mù xem bói rất hay, bà đã xem bói hơn chục năm rồi, cô vô xem một quẻ lấy hên đầu năm…” Khi xem bói miệng bà như học sinh trả bài. Với bất kỳ ai, bà cũng bảo nhà đang ở ngay cục đất dữ, có 5 con quỷ theo phá, cần thiết phải thỉnh sắc bà (một tờ giấy màu vàng, có in hình bát quái… giá 50.000 đồng), rồi buổi tối đem ra sân đốt đi để bà đưa 5 con quỷ vô chùa cho nó khỏi phá nhà cửa, khi đó tiền tài mới hanh thông, gia đạo mới bình an. Bà cũng nhận cúng sao giải hạn “giùm” với giá 260.000 đồng. Không những thế, để chứng nhận là người xem bói chuyên nghiệp, bà in cả xấp danh thiếp quảng bá nơi bà hành nghề hàng ngày và địa chỉ nhà riêng.

Thưa luật sư, đầu xuân, nhiều người tìm đến các thầy bói để xem tử vi, bói toán vì họ cho rằng, thầy bói có thể cho họ biết những điều tốt, xấu trong năm, thậm chí trong cả cuộc đời. Và không ít kẻ đã lợi dụng lòng tin của người dân để làm những điều xấu. Vậy những đối tượng hành nghề bói toán có bị coi là vi phạm pháp luật hay không? Các đối tượng phạm tội sẽ bị xử lý như thế nào? Có khi nào thầy bói bị xử lý hình sự không, thưa luật sư?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bác đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Pháp luật đã có quy định rất rõ ràng về hành vi lợi dụng bói toán để vi phạm pháp luật. Những người hành nghề bói toán này gây ảnh hưởng xấu đến lòng người dân, gây ra những thiệt hại về người và của cải thì sẽ bị xử phạt về hành chính hoặc xử lý hình sự hoặc bị xử lý cả hành chính và hình sự.

Thứ nhất: Xử phạt hành chính theo điểm a, khoản 2, Điều 15, Nghị định 158/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo quy định phạt tiền từ 3 đến 5 triệu  đồng đối với hành vi lợi dụng hoạt động lên đồng, xem bói, gọi hồn, xin xăm, xóc thẻ, yểm bùa, phù chú, truyền bá sấm trạng và các hình thức tương tự khác để trục lợi. Theo khoản 4, Điều 15, Nghị định 158, người vi phạm buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều này.

Thứ hai: Xử lý hình sự theo Điều 320 BLHS 2015 quy định về Tội hành nghề mê tín, dị đoan.

“Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Phạm tội làm chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 30 triệu đồng.”

Việc bị xử lý hình sự được căn cứ theo Điều 320 BLHS 2015 quy định về Tội hành nghề mê tín, dị đoan :

“1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

  1. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
  2. a) Làm chết người;
  3. b) Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên;
  4. c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.”

Ngoài ra, việc thầy bói lợi dụng tư cách của mình để thực hiện các hành vi phạm tội khác như lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hiếp dâm… sẽ bị xử lý theo các quy định pháp luật hiện hành đúng với tội trạng mà những người đó gây ra.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trách nhiệm của chủ nuôi khi để chó cắn chết người

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về trách nhiệm của chủ nuôi khi để chó cắn chết người

Câu hỏi: Chào Luật sư, tôi muốn hỏi trường hợp chủ nuôi chó không trông coi dẫn đến chó chạy ra ngoài cắn người khác, hậu quả là người bị cắn thiệt mạng thì người chủ nuôi chó phải chịu trách nhiệm như thế nào?

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 24/11/2015;

– Bộ luật Hình sự 100/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 27/11/2015; được sửa đổi bổ sung năm 2017;

– Nghị định số 90/2017/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 90/2017/NĐ-CP quy định:

“Điều 7. Vi phạm về phòng bệnh động vật trên cạn

  1. Phạt tiền từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
  2. a) Không tiêm phòng vắc xin phòng bệnh Dại cho động vật bắt buộc phải tiêm phòng;
  3. b) Không đeo rọ mõm cho chó hoặc không xích giữ chó, không có người dắt khi đưa chó ra nơi công cộng”

Như vậy pháp luật đã quy định người nuôi chó phải có ý thức quản lý thú cưng của mình khi đưa chó ra nơi công cộng, cụ thể phài có biện pháp đeo rọ mõm và xích giữ chó để đảm bảo an toàn cho cộng đồng. Người không thực hiện đúng những quy định trên sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng.

Ngoài ra, Điều 603 Bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra như sau:

Điều 603. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra

  1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
  3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
  4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”

Trong trường hợp mà bạn đưa ra, do đã dẫn đến hậu quả chết người nên ngoài những trách nhiệm nêu trên, người chủ nuôi còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật hình sự hiện hành.

Về hành vi để chó cắn chết người, phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người chủ nuôi mà người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo những tội danh khác nhau được quy định trong Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Tội giết người (Điều 123 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) hoặc Tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). Cơ quan điều tra khi tiến hành điều tra vụ án sẽ phải xác định cụ thể nhiều yếu tế để kết luận hành vi của người chủ nuôi sẽ bị truy tố theo tội nào. Ví dụ trường hợp người chủ vật nuôi cố ý thả rông chó với mong muốn xảy ra hậu quả chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì có thể bị truy cứu theo Tội giết người hoặc Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác.

Ở đây, nếu xác minh được người chủ nuôi chó không có ý định thả chó với mong muốn gây chết người hoặc gây thương tích cho người khác mà việc để chó chạy ra nơi công cộng và gây chết người là do sự cẩu thả, chủ quan của chủ vật nuôi thì người chủ vật nuôi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vô ý làm chết người. Điều 128 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:

Điều 128. Tội vô ý làm chết người

  1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
  2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”

Người chủ vật nuôi có thể phải chịu khung hình phạt cao nhất đối với tội danh này là phạt tù đến 10 năm nếu để xảy ra hậu quả làm chết 02 người trở lên.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự?

Luật sư cho tôi hỏi Em trai tôi có thực hiện hành vi giật đồ của người đi đường nhưng là lần đầu tiên thực hiện hành vi này. Trong lúc dự phiên tòa, tôi có nghe thông tin là em tôi cấu thành tội phạm tăng nặng do số tài sản khi thực hiện hành vi giật đồ, như vậy có đúng không.

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ Luật hình sự năm 2015 Số: 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

  1. Luật sư tư vấn:

Mỗi trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội nhất định phải có những nội dung biểu hiện riêng biệt ở cả bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Các loại tội phạm có cách biểu hiện loại tội phạm, phương thức phạm tội, công cụ phạm tội,… nhưng tất cả các trường hợp phạm tội của tội phạm nhất định giống nhau ở cả bốn yếu tố. Những biểu hiện giống nhau đó được coi là những dấu hiệu chung có tính đặc trưng của tội phạm nhất định. Khi quy tội phạm trong luật các nhà làm luật phải sử dụng các dấu hiệu này để mô tả tội phạm, và sự mô tả này được gọi là cấu thành tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Tùy theo mục đích mà các nhà làm luật hướng đến mà cấu thành tội phạmđược chia làm cách là dựa vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh và phân loại theo đặc điểm cấu trúc của tội phạm. Để phù hợp với yêu cầu của đề bài em chỉ phân tích phân loại của cấu thành tội phạm thứ nhất tức là theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh. Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa cấu thành tội phạm thành ba loại:

– Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.

– Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn xem them dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể ( so với trường hợp bình thường ).

– Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể ( so với trường hợp bình thường ).

Để làm rõ về tính nguy hiểm cho xã hội trong hành vi cướp giật tài sản của em trai chị làm rõ tại khoản 1 Điều 171 và khoản 2 Điều 171 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 171 Bộ Luật hình sự năm 2015 quy định:

“ Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”

Theo điều khoản này quy định dấu hiệu định tội là người nào cướp giật tài sản của người khác, xét theo ba loại cấu thành tội phạm thì đây thuộc loại cấu thành tội phạm cơ bản vì trong khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định dấu hiệu định tội của loại tội phạm. Loại tội phạm mà em trai của chị thực hiện là tội cướp giật tài sản nhưng lại có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 bởi vì tài sản K trộm cắp có giá trị là 62.500.000 triệu đồng, với số tiền này hành vi của em trai của chị gây ra có thiệt hại nghiêm trọng hơn so với hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Trường hợp phạm tội của em trai của chị được quy định trong điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ Luật hình sự năm 2015:

“ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu đồng”.

Khi hành vi phạm tội đã thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng thì khung hình phạt sẽ chuyển từ khung hình phạt bình thường sang khung hình phạt tăng nặng. Tội cướp giật tài sản thỏa mãn khung hình phạt bình thường khi người phạm tội thực hiện hành vi được quy định trong khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015 thì sẽ bị phạt tù từ một đến năm năm. Cướp giật tài sản mà thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng trong khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015 thì sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

Vì vậy có thể khẳng định hành vi phạm tội của em trai chị thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng theo điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng