Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự?

Luật sư cho tôi hỏi Em trai tôi có thực hiện hành vi giật đồ của người đi đường nhưng là lần đầu tiên thực hiện hành vi này. Trong lúc dự phiên tòa, tôi có nghe thông tin là em tôi cấu thành tội phạm tăng nặng do số tài sản khi thực hiện hành vi giật đồ, như vậy có đúng không.

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ Luật hình sự năm 2015 Số: 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015

  1. Luật sư tư vấn:

Mỗi trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội nhất định phải có những nội dung biểu hiện riêng biệt ở cả bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Các loại tội phạm có cách biểu hiện loại tội phạm, phương thức phạm tội, công cụ phạm tội,… nhưng tất cả các trường hợp phạm tội của tội phạm nhất định giống nhau ở cả bốn yếu tố. Những biểu hiện giống nhau đó được coi là những dấu hiệu chung có tính đặc trưng của tội phạm nhất định. Khi quy tội phạm trong luật các nhà làm luật phải sử dụng các dấu hiệu này để mô tả tội phạm, và sự mô tả này được gọi là cấu thành tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Tùy theo mục đích mà các nhà làm luật hướng đến mà cấu thành tội phạmđược chia làm cách là dựa vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh và phân loại theo đặc điểm cấu trúc của tội phạm. Để phù hợp với yêu cầu của đề bài em chỉ phân tích phân loại của cấu thành tội phạm thứ nhất tức là theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh. Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa cấu thành tội phạm thành ba loại:

– Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.

– Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn xem them dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể ( so với trường hợp bình thường ).

– Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể ( so với trường hợp bình thường ).

Để làm rõ về tính nguy hiểm cho xã hội trong hành vi cướp giật tài sản của em trai chị làm rõ tại khoản 1 Điều 171 và khoản 2 Điều 171 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 171 Bộ Luật hình sự năm 2015 quy định:

“ Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”

Theo điều khoản này quy định dấu hiệu định tội là người nào cướp giật tài sản của người khác, xét theo ba loại cấu thành tội phạm thì đây thuộc loại cấu thành tội phạm cơ bản vì trong khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định dấu hiệu định tội của loại tội phạm. Loại tội phạm mà em trai của chị thực hiện là tội cướp giật tài sản nhưng lại có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 bởi vì tài sản K trộm cắp có giá trị là 62.500.000 triệu đồng, với số tiền này hành vi của em trai của chị gây ra có thiệt hại nghiêm trọng hơn so với hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Trường hợp phạm tội của em trai của chị được quy định trong điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ Luật hình sự năm 2015:

“ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu đồng”.

Khi hành vi phạm tội đã thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng thì khung hình phạt sẽ chuyển từ khung hình phạt bình thường sang khung hình phạt tăng nặng. Tội cướp giật tài sản thỏa mãn khung hình phạt bình thường khi người phạm tội thực hiện hành vi được quy định trong khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015 thì sẽ bị phạt tù từ một đến năm năm. Cướp giật tài sản mà thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng trong khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015 thì sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

Vì vậy có thể khẳng định hành vi phạm tội của em trai chị thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng theo điểm c khoản 2 Điều 136 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Phạm tội trong khi say rượu có phải tình tiết giảm nhẹ không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về phạm tội khi say rượu có phải tình tiết giảm nhẹ không?

Chào Luật sư xin hỏi: Người bạn của tôi mới phạm tội khi anh ta đang say, tôi nghe nói khi anh ta bị hạn chế về khả năng điều khiển hành vi thì được giảm nhẹ tội, vậy phạm tội trong khi say rượu có phải tình tiết giảm nhẹ không? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015;

– Luật số 12/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật hình sự số 100/2015/QH13.

  1. Nội dung tư vấn:

Theo quy định pháp luật thì người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng say rượu, làm mất hoàn toàn hoặc hạn chế một phần khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì vẫn phải chịu TNHS như bình thường. Cụ thể theo quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác

Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Việc quy định như vậy bởi lẽ trước khi say, họ có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, việc họ bị mất hoặc hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự hoàn toàn do người phạm tội lựa chọn và quyết định nhằm đưa mình vào trạng thái đó mặc dù anh ta biết và buộc phải biết rằng nếu mình say thì mình sẽ không đủ tỉnh táo để thực hiện các hành vi nhất định. Vì thế, TNHS đặt ra đối với họ là ở thời điểm chưa say. Mặt khác, quy định này còn có ý nghĩa trong việc giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn việc lợi dụng tình trạng say rượu, bia hoặc chất kích thích khác để thực hiện tội phạm.

Thực tế khi xét xử, Tòa án cũng không coi say rượu là tình tiết giảm nhẹ. Theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cũng không có tình tiết về say rượu là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Thậm chí tình tiết này còn là tình tiết định khung tăng nặng trong một số loại tội phạm nhất định ví dụ như tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

  1. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
  2. b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác”.

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có bị áp dụng tình tiết tăng nặng khi đánh bạc qua mạng ?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Có bị áp dụng tình tiết tăng nặng khi đánh bạc qua mạng ?

Câu hỏi khách hàng:

Kính chào Luật sư, tôi có một câu hỏi kính mong được Luật sư tư vấn: Tôi có tham gia chơi cá ngựa bằng cách liên hệ đơn vị tổ chức qua zalo. Vậy, đây có có được xem là hành vi đánh bạc qua mạng internet để áp dụng tình tiết tăng nặng hay không? Trân trọng cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

– Công văn số: 196/TANDTC-PC ngày 04 tháng 9 năm 2018 về việc áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của BLHS.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Căn cứ theo quy định tại Điều 321 BLHS 2015:

“Điều 321. Tội đánh bạc

  1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
  3. a) Có tính chất chuyên nghiệp;
  4. b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
  5. c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;…”

Theo đó, sử dụng mạng internet (trong đó bao gồm cả zalo) là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự với tội đánh bạc. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn 196/TANDTC:

“Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc).

Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber…. để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa…) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào trường hợp của bạn, hành vi cá độ của bạn có sử dụng mạng zalo để liên hệ với bên tổ chức đánh bạc thì không được gọi là hành vi sử dụng mạng internet để phạm tội theo hướng dẫn trên. Do đó, không áp dụng tình tiết tặng nặng này khi xét xử.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng