Bồi thường thiệt hại do công trình nhà người khác gây ra

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

  1. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Theo quy định tại Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.

Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.”

Như vậy, nếu có cơ sở để chứng minh công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì bạn có thể yêu cầu người đó bồi thường.

  1. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại khoản 5 Điều 11 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 11. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự

Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:

  1. Buộc bồi thường thiệt hại.

…”

Theo Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 170. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại.”

Như vậy, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với người có hành vi gây thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự do hành vi gây ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể. Bên có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật này về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 584 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

 

 

Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện và áp dụng vào vụ án này được phân tích như sau:

Có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.

Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tư vấn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ do con cái gây ra

Cha mẹ có nghĩa vụ giáo dục, quản lý con vì vậy trong một số trường hợp khi con gây ra thiệt hại thì cha mẹ cũng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho con. Vậy quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào? Sau đây Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn liên quan đến vấn đề này như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014.

  1. Luật sư tư vấn

Khoản 5 Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về một trong những nghĩa vụ chung của vợ chồng là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.

Theo Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự.

Dẫn chiếu Bộ luật Dân sự năm 2015, theo quy định tại Điều 586 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:

“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

  1. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

  1. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”

Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Đây là những người chưa đủ năng lực hành vi dân sự.

Xuất phát từ vai trò trách nhiệm của cha, mẹ dạy dỗ giáo dục con cái nên trong trường hợp con chưa đủ 15 tuổi thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu như tài sản cha, mẹ không đủ để bồi thường nếu con có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Tuy nhiên, trong thời gian trường học đang quản lý trực tiếp nhưng có lỗi trong việc quản lý người dưới 15 tuổi để người đó gây ra thiệt hại thì trường học có trách nhiệm bồi thường thiệt hại (điều 599 Bộ luật Dân sự năm 2015)

Đối với trường hợp người đủ 15 tới 18 tuổi nếu có tài sản riêng thì họ có thể tự mình xác lập các giao dịch dân sự mà nghĩa vụ của nó cho phép thực hiện trong phạm vi tài sản của họ, do vậy trường hợp họ gây ra thiệt hại họ có trách nhiệm dùng tài sản riêng đó của mình để thực hiện bồi thường thiệt hại, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì khi đó cha, mẹ mới phải bồi thường bằng tài sản còn thiếu của mình. Có sự khác biệt so với trường hợp trên là do những người này cũng đã có nhận thức được một phần về hành vi của mình nhưng chưa đầy đủ nên việc pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo những đối tượng này cần phải cân nhắc và có trách nhiệm đối với hành vi của chính bản thân họ.

Trường hợp người chưa thành niên gây ra thiệt hại không còn cha mẹ thì người giám hộ của họ có trách nhiệm được dùng tài sản của người chưa thành niên (nếu có) để bồi thường, còn người chưa thành niên không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của con (trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được họ không có lỗi trong việc giám hộ người gây thiệt hại).

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Bồi thường thiệt hại do hành vi xây nhà gây sụt, lún công trình liền kề

Theo quy định của pháp luật, vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi xây nhà gây sụt, lún công trình liền kề được giải quyết như thế nào? Liên quan đến vấn đề này, Luật Hiệp Thành đưa ra những tư vấn như sau:

Hỏi: Nhà ông Trần Văn A là hàng xóm bên cạnh nhà tôi đang đào móng để xây dựng khách sạn, tuy nhiên, trong quá trình đào móng sâu phía bên dưới đã làm cho một phần nhà tôi bị lún và có rất nhiều đường rạn nứt trên tường. Khi phát hiện ra, tôi đã qua nói chuyện với ông A về việc rạn nứt và yêu cầu ông A sửa chữa nhà cho tôi nhưng ông A cho rằng việc xây nhà của ông A không liên quan đến nhà tôi, ông xây dựng trên đất của ông nên tôi không có quyền yêu cầu ông A bồi thường. Như vậy, hành vi của ông A có vi phạm pháp luật hay không? Tôi có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu ông A bồi thường hay không?

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới chúng tôi, sau đây Luật Hiệp Thành sẽ đưa ra tư vấn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015;

– Nghị định số 139/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/11/2017 Về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng;

– Thông tư số 05/2015/TT-BXD của Bộ Xây dựng ngày 30/10/2015 về quản lý chất lượng xây dựng và bảo trì nhà ở riêng lẻ.

  1. Nội dung tư vấn

– Thứ nhất, quy định của pháp luật về quy tắc trong xây dựng như sau:

Tại Điều 174 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng: “Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.”

Tiếp đó, Điều 8 Thông tư số 05/2015/TT-BXD ngày 30/10/2015 quy định về quản lý chất lượng xây dựng và bảo trì nhà ở riêng lẻ có quy định như sau:

Điều 8. Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm

  1. Trước khi thi công xây dựng, chủ nhà chủ động liên hệ với các chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình liền kề, lân cận để kiểm tra hiện trạng và ghi nhận các khuyết tật của công trình liền kề, lân cận (nếu có). Chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình liền kề, lân cận có trách nhiệm phối hợp với chủ nhà để kiểm tra, ghi nhận hiện trạng công trình làm căn cứ giải quyết các tranh chấp (nếu có).
  2. Trong quá trình thi công xây dựng, nếu công trình liền kề, lân cận có dấu hiệu bị lún, nứt, thấm, dột hoặc có nguy cơ sập đổ do ảnh hưởng của việc xây dựng nhà ở gây ra, chủ nhà phải phối hợp với chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình liền kề, lân cận để kiểm tra, xác định nguyên nhân và thống nhất biện pháp khắc phục. Trường hợp các bên không thống nhất thì tranh chấp phát sinh được giải quyết theo quy định của pháp luật.”

Như vậy, khi xây dựng công trình, chủ sở hữu cần phải tuân theo các quy định pháp luật, không được làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho tài sản của nhà liền kề và xung quanh. Trước khi thi công chủ sở hữu công trình phải có trách nhiệm chủ đông liên hệ các chủ sở hữu công trình lân cận kiểm tra hiện trạng trước khi thi công. Nếu ông A xây nhà là nguyên nhân trực tiếp khiến nhà bạn bị lún, nứt thì ông A đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà bạn, vi phạm nguyên tắc trong xây dựng và phải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp khắc phục, bồi thường thiệt hại..

– Thứ hai, trách nhiệm của bên thi công xây dựng gây ảnh hưởng đến chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng công trình liền kề.

Căn cứ Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về việc bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.”

+ Xử phạt vi phạm hành chính: Hành vi thi công xây dựng gây ảnh hưởng đến công trình hạ tầng lân cận sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 Về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng như sau:

“3. Xử phạt đối với hành vi tổ chức thi công xây dựng công trình vi phạm quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng gây lún, nứt hoặc hư hỏng công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình lân cận (mà các bên không thỏa thuận được việc bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự); gây sụp đổ hoặc có nguy cơ gây sụp đổ công trình lân cận nhưng không gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người khác như sau:

  1. a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ tại nông thôn hoặc công trình xây dựng khác không thuộc trường hợp quy định tại điểm b, điểm c khoản này;
  2. b) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ tại đô thị;
  3. c) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật đầu tư xây dựng hoặc lập dự án đầu tư xây dựng.”

+ Bồi thường dân sự: Đồng thời, nếu nhà ông A trong quá trình xây dựng nhà gây ảnh hưởng, thiệt hại đến nhà của bạn thì họ phải ngừng việc thi công và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với sự cố do công trình của mình gây ra. Việc bồi thường thiệt hại do hai bên thỏa thuận, nếu các bên không thỏa thuận được về mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến thiệt hại và mức thiệt hại thực tế để đưa ra mức độ bồi thường thiệt hại cụ thể trong đó bao gồm mức thiệt hại thực tế đối với công trình lân cận bị hư hỏng và các chi phí khác có liên quan. Do đó, bạn cần chứng minh việc xảy ra rung, nứt ở nhà bạn là do việc thi công xây nhà của hàng xóm gây nên.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác anh/chị vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

 

Bồi thường thiệt hại trong xây dựng

Luật Hiệp Thành tư vấn về trường hợp công trình xây dựng bị gió bão gây hư hỏng thì người thi công xây dựng có phải bồi thường không? Cụ thể như sau:

Câu hỏi:

Chào các Luật sư. Mong các Luật sư tư vấn cho mình trường hợp như sau: Công ty mình có ký hợp đồng với 1 công ty tư nhân, bên mình nhận thi công nhà xưởng, thi công đã xong và chủ đầu tư đã cho vào sử dụng, nhưng chủ đầu tư chưa thanh toán hết cho công ty mình dù đã 2 tháng, biên bản nghiệm thu thì họ ký rồi nhưng chưa gửi lại cho bên mình, họ hẹn 3 ngày nữa sẽ chuyển tiền và gửi lại hồ sơ , nhưng ngày hôm sau bão vào và làm tốc mái nhà xưởng và xà gồ. Không riêng 1 xưởng của mình mà xưởng cũ của họ nữa, vậy xin hỏi các Luật sư thiệt hại như vậy bên nào chịu, và nhờ các Luật sư có cách nào để thương lượng hay nhất đối với trường hợp này, xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự năm 2015;

  1. Luật sư tư vấn

Theo Điều 584 và Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
  2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
  3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

“Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

  1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
  2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
  3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
  4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
  5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”

Căn cứ Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.

Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.”

Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“…Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình..”

Theo quy định tại Điều 605 BLDS năm 2015 nêu trên, chủ sở hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng phải bồi thường thiệt hại nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên, trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng thì không phải bồi thường. Trong trường hợp của bạn, thiệt hại xảy ra do thiên tai là sự kiện bất khả kháng, xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được trong khả năng cho phép. Do đó, trong trường hợp này, công ty bạn không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự kiện bất khả kháng.

Trừ trường hợp việc thiên tai làm bay mái nhà của công ty tư nhân gây thiệt hại cho những ngôi nhà bên cạnh do mái nhà của công ty tư nhân của công ty bạn nhận làm được xây lắp không đảm bảo an toàn kĩ thuật dẫn đến thiệt hại. Trong trường hợp này phải chứng minh được hành vi trái pháp luật và yếu tố lỗi của công ty bạn thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường.

Về việc thương lượng: Nếu lỗi không thuộc về công ty bạn thì công ty không phải bồi thường bất kỳ khoản chi phí nào, ngoài ra công ty tư nhân kia có trách nhiệm thanh toán các chi phí còn lại sau khi công ty bạn làm xong nhà xưởng như bạn đã trình bày trên; nếu chứng minh được lỗi thuộc về công ty bạn thì công ty bạn phải bồi thường, nhưng do công ty tư nhân chưa thanh toán xong thì công ty bạn có thể thỏa thuận về việc trừ những khoản chưa thanh toán để bồi thường thiệt hại về tài sản cho công ty tư nhân.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Quy định về Bồi thường thiệt hại

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về bồi thường thiệt hại khi không có lỗi.

Chào Luật sư xin hỏi: Tôi và hàng xóm thường xuyên xảy ra xích mích, một hôm khi đang cãi nhau thì người hàng xóm đó có đe dọa tôi rằng: “Mày cứ cẩn thận, mai ra đường tao tông chết mày”. Sáng hôm sau khi đang lưu thông trên đường thì người hàng xóm đó đã cố tình lao xe máy đến đâm vào tôi, vì đã có sự đề phòng nên tôi chỉ bị xây xát nhẹ còn người đã đâm tôi thì bị thương nặng phải vào viện điều trị, cơ quan công an cũng xác định là tôi không có lỗi (vì có camera ghi lại được cảnh hắn cố tình lao vào xe tôi). Vậy xin hỏi luật sư tôi có phải bồi thường chi phí nằm viện của người hàng xóm kia không? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 24 tháng 11 năm 2015.

  1. Chuyên viên tư vấn

Điều 584 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
  2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.

Vì trường hợp này có liên quan đến nguồn quy hiểm cao độ là phương tiện giao thông nên căn cứ tại điểm a Khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự quy định:

Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

  1. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
  2. a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
  3. b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Như vậy, từ các căn cứ nêu trên, trong trường hợp của anh, nếu anh có căn cứ chứng minh được anh đã tuân thủ đúng quy định pháp luật về giao thông, hoàn toàn không có lỗi trong việc gây tai nạn, tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị hại thì anh không phải bồi thường.

Anh cần chứng minh mình không có lỗi bằng cách tìm người làm chứng, đề nghị trích xuất camera ghi hình… Và anh có thể thỏa thuận với bên bị hại về trách nhiệm bồi thường sao cho hợp tình và hợp lý nhất, nếu bên bị thiệt hại đưa ra đề nghị không thể chấp nhận được thì anh sẽ không phải bắt buộc bồi thường theo quy định của pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng