Tái phạm hay tái phạm nguy hiểm

Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn pháp lý liên quan đến việc nhận biết giữa tái phạm và tái phạm nguy hiểm căn cứ theo Bộ luật hình sự năm 2015.

Câu hỏi: K phạm tội giết người theo điều 123 Bộ luật hình sự 2015 (BLHS). Giả sử vừa chấp hành xong hình phạt 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích) lại tái phạm tội như tình huống trên thì trường hợp phạm tội của K được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Cảm ơn luật sư.

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định tại Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015 định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:

“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

  1. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
  2. a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
  3. b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”.

Như vậy, để xác định trường hợp của K là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm cần phải xác định 2 vấn đề cơ bản sau:

– Tội giết người của K là lỗi vô ý hay cố ý?

– K đã bị kết án về loại tội gì?

Theo Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về việc phân loại tội phạm như sau:

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:

  1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
  2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
  3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
  4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

– Thứ nhất, Đối với tội giết người của K theo Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, vì vậy theo khoản 4 Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hơn nữa, thông tin mà bạn cung cấp thì K đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, do đó, có thể thấy K hoàn toàn nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình. Do đó, K phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

– Thứ hai, Đối với tội trộm cắp tài sản của K thuộc loại tội gì thì cần phải xác định mức phạt cao nhất của khung hình phạt mà K đã bị kết án. Do bạn không cung cấp thông tin là K đã bị kết án theo khoản 2 hay khoản 3 của Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 nên tôi sẽ chia làm hai trường hợp là K bị kết án theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015:

Đối với vấn đề xác định loại tội phạm sẽ không dựa vào mức án mà tòa án đã tuyên mà cần phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt để xác định. Nếu K phạm tội theo khoản 2 Điều 173 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm tù. Như vậy, tội phạm mà K đã bị kết án trong trường hợp này là tội phạm nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015( sủa đổi, bổ sung năm 2017).Như vậy, xét trong trường hợp này thì: K đã bị kết án , chưa được xóa án tích, lại thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên trương hợp phạm tội này của K là tái phạm K bị kết án theo khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Nếu như K bị kết án theo khoản 3 Điều 173 thì mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù. Như vậy, theo khoản 3 Điều 9 Bộ luật hình sự, thì trường hợp này K đã phạm tội rất nghiêm trọng. Như vậy, xét trong trường hợp này thì: K đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích, lại thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên trương hợp phạm tội này của K là tái phạm nguy hiểm theo điểm a, khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Thế nào là tái phạm nguy hiểm?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn thế nào là tái phạm nguy hiểm?

Luật sư tư vấn:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

  1. Nội dung:

Theo  Khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tái phạm nguy hiểm được quy định như sau:

2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

  1. a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
  2. b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.”

Căn cứ theo quy định này thì người phạm tội bị coi là tái phạm nguy hiểm khi:

–  Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

–  Đã tái phạm, chưa được xóa án mà lại phạm tội do cố ý. Đối với trường hợp này, người phạm tội khi bị tòa án kết luận có tái phạm và đã bị kết án, khi chưa được xóa án tích mà lại phạm tội thì sẽ bị coi là tái phạm nguy hiểm, không phân biệt tội ít nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Như vậy, với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, tái phạm nguy hiểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra cao hơn so với trường hợp phạm tội không có tình tiết này. Tính nguy hiểm này xuất phát từ dấu hiệu nhân thân của người phạm tội. Khi phạm tội mà thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm là thể hiện tính xem thường pháp luật của người phạm tội; thể hiện họ là đối tượng khó cải tạo, giáo dục. Bên cạnh đó, theo Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015, một trong những nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội là nghiêm trị đối với trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì Tòa án phải quyết định hình phạt ở mức cao để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và đảm bảo mục đích của hình phạt.

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tái phạm tội đánh bạc theo quy định pháp luật hình sự

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về Tội đánh bạc theo quy định pháp luật

Kính chào luật sư! Tôi có đánh bạc và bị bắt, tôi phải đi cải tạo 08 tháng về, nay tôi lại tập trung mọi người đánh bạc tại nhà tôi. Nay tôi bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc.

Tôi muốn hỏi nếu tôi bị kết án về tội tổ chức đánh bạc và có tình tiết tăng nặng là tái phạm thì có đúng không? Tôi xin luật sư giải đáp giúp tôi như thế nào là tái phạm và tái phạm nguy hiểm? Vì sắp tới vụ án của tôi sẽ được đưa ra xét xử công khai tại nhà văn hóa thôn tôi. Nếu tôi không đồng ý với quyết định của tòa thì tôi có được kháng cáo không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015.

Luật sửa đổi Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 Được Quốc hội khoá 14 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017.

  1. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất: Đánh bạc là được thua bằng tiền hay một vật có giá trị dựa vào kết quả chưa rõ ràng của một sự kiện với một mục đích có thêm tiền bạc hoặc giá trị vật chất. Do vậy đánh bạc dựa trên 3 yếu tố: sự tính toán, cơ hội và giải thưởng.

Thông thường, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ biết được rõ ràng, trong thời gian ngắn, chẳng hạn như việc lắc xúc xắc hoặc quay bi trên bàn roulette; tuy vậy có các biến cố xa hơn, như đánh bạc cho kết quả của cả một mùa giải thể thao.

Đánh bạc cũng là một hoạt động thương mại quốc tế lớn, với các thị trường cờ bạc hợp pháp với tổng giá trị ước tính khoảng 335 tỷ USD vào năm 2009. Trong các hình thức khác, việc đánh bạc có thể được thực hiện với các vật liệu có giá trị, nhưng không phải là tiền thật. Ví dụ, người chơi trò chơi Marble có thể đánh cược bi, và tương tự như vậy trò chơi của Pogs hay Magic: The Gathering có thể được chơi với nhiều bộ sưu tập game (tương ứng, các đĩa nhỏ và thẻ bài) dùng làm vật để cược.

Pháp luật Việt Nam không cho phép các cá nhân tổ chức đánh bạc trái phép, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Trường hợp này là bạn đã bị xử lý về tội đánh bạc nay là tội tổ chức đánh bạc vậy nên thuộc quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 điều chỉnh. Các hình thức đánh bạc phổ biến tại Việt Nam hiện nay là chơi bài lá, cá cược, đánh lô, đề trái phép,…

Tái phạm tội đánh bạc theo quy định pháp luật hình sự hiện hành

Thứ hai: Căn cứ theo Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:

“Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm

  1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
  2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
  3. a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
  4. b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”

Vậy nên trong trường hợp này bạn đã bị kết án về tội đánh bạc mà chưa được xóa án tích mà nay bạn lại vi phạm thì được coi là tái phạm. Một hành vi vi phạm chỉ được coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm chứ không cùng lúc áp dụng cả hai tình tiết tăng nặng này đối với hành vi vi phạm của bạn.

Thứ ba: Về quyền kháng cáo thì bạn hoàn toàn có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật theo thời gian hạn định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

“Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về người có quyền kháng cáo như sau:

Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.”

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.

Vậy nên bạn hoàn toàn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, việc kháng cáo cũng cần phải có căn cứ pháp lý nên bạn cần tìm hiểu rõ về lý do kháng cáo đúng với quy định như nội dung trả lời của luật sư như trên.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng