Yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác qua mạng

Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác qua mạng Internet

Hỏi: Xin chào Luật sư. Mình có vấn đề như sau cần sự tư vấn của các Luật sư:

Mình có quen 1 cô bé qua mạng facebook. Vì lần ấy, mình có lên group để tìm nhân viên tín dụng để làm hồ sơ vay. Em ấy rất nhiệt tình hướng dẫn. Mình đã vay được. Gần đây mình tiếp tục nhờ em ấy giúp. Em ấy có giới thiệu 1 người khác. Người ấy yêu cầu phải chuyển phí trước là 5 triệu ngay hôm đấy. Mình cũng sợ bị lừa khi đưa phí trước. Nhưng em ấy bảo người đó uy tín và là cấp trên. Mình đã phải vay mượn để có 5 triệu chuyển cho họ. Và qua ngày hôm sau, họ đòi tiếp 3 triệu vì hồ sơ khó. Hẹn thứ 7 hoặc thứ 2 sẽ giải ngân.

Nhưng đến thứ 2, bảo chiều 2h có, sau đó hẹn 7h tối và khi 7h ko có. Mình gọi hỏi thì cô bé ấy bảo để gọi kiểm tra xem. Thế là mình đợi tiếp. Qua thứ 3 và sau đó 2 SĐT của 2 người đó đều khóa máy. Ngay cả số tài khoản ngân hàng, người đó cũng đọc chứ không nhắn tin. Mọi chuyện như bảo chuyển tiền , hay chờ đều thông qua cô bé kia. Mà cô bé đó 2 hôm nay cứ mình hỏi han, nhắn tin đc 1 lúc thì chặn facebook mình

Trong khi em ấy là người giới thiệu tên kia cho mình, đảm bảo uy tín và kêu mình chuyển phí đi. Em ấy chặn facebook, còn sđt tên kia thì gọi lúc nào cũng thuê bao. Mấy ngày đầu chưa chuyển tiền phí cho thì gọi lúc nào cũng đc.

Vậy xin hỏi, có phải là mình đã bị 2 người đó lừa ko? Vì tính đến nay đã gần 9 ngày rồi. Tên kia nói chỉ 3,4 ngày được giải ngân. Từ thứ 7 đến giờ, điện thoại gọi toàn thuê bao. Còn cô bé kia, khi mình nhắn tin kêu chờ để em ý đòi cho rồi chặn facebook tiếp. Vậy mình có nên tố cáo được không ạ? Liệu mình có cơ sở để tố cáo không? Mình chỉ còn giữ biên lai chuyển tiền, tin nhắn chat với cô bé kia thôi. Mình có thể tố cáo với công an ko ạ? Xin cảm ơn các Luật sư!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm,
  3. b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong tội quy định tại các điều 168, 169, 170,171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c)Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d)Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

  1. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
  2. a) Có tổ chức;
  3. b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c)Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d)Tái phạm nguy hiểm

đ) Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

  1. e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
  2. g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d Khoản 1 Điều này.
  3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
  4. a) Chiếm đoạt tài sản giá trị từ 200.000.000 đồng đến trên dưới 500.000.000 đồng;
  5. b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d Khoản 1 Điều này;
  6. c) Lợi dụng thiên tai dịch bệnh.
  7. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
  8. a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  9. b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d Khoản 1 Điều này;

c)Lợi dụng thiên tai dịch bệnh

  1. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi vi phạm phải đáp ứng các yếu tố: “dùng thủ đoạn gian dối” và ” chiếm đoạt tài sản của người khác”. Mặt khác phải có đủ 4 yếu tố để cấu thành tội phạm bao gồm: khách thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm:

– Thứ nhất về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội lừa đảo lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

– Thứ hai về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.

– Thứ ba về mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo  cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách gian dối.Đó là hành vi dùng thủ đoạn giao dối làm cho người có tài sản tin là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng cuả tội phạm này là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt.

+ Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả ( không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động và bằng nhiều hình thức khác nhau như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lý kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản

Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị mắc lừa giao tài sả cho kẻ phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ ra phải nhận.

+ Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự.

+ Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Gía trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên. Nếu dưới hai triệu đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiệm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

– Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác do mình thực hiện là hành vi gian dối, trái pháp luật. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái pháp luật và mong muốn xảy ra hậu quả đó.

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lối cố ý. Về mặt ý chí của người phạm tội lừa đảo bao giờ cũng nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo.Ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn gia dối và hành vi chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước khi tiến hành giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội. Nếu sau khi có được tài sản hợp pháp mới phát sinh thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì không coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng.

Như vậy, dựa vào những phân tích trên nếu như cô gái này có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bạn thì bạn hoàn toàn có quyền làm đơn trình báo lên cơ quan công an. Bạn cần phải cung cấp đầy đủ thông tin người này, kèm theo bằng chứng chứng cứ để cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho bạn.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Lừa đảo qua mạng có phải trách nhiệm trước pháp luật không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Chào luật sư, xin cho em hỏi một sự việc như sau: Em có mua bán quần áo của một người qua facebook được một vài lần mỗi lần khoảng vài trăm nghìn để về bán là quần áo trẻ em, những lần trước thì không vấn đề gì vì em trả tiền sau, nhưng lần cuối cùng em có mua nhiều hơn và lần này do tin tưởng nên em trả tiền cho họ trước là 3 triệu. Sau đó, họ không giao hàng cho em, và chặn facebook của em. Bây giờ em có thể làm gì để đòi lại khoản tiền đã bị lừa mất, và họ phải chịu trách nhiệm thế nào trước pháp luật?

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015

Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày ngày 27 tháng 11 năm 2015.

Luật sửa đổi Bộ luật hình sự số 12/2017/QH14 Được Quốc hội khoá 14 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017.

Nghị định 167/2013/NĐ-CP Nghị định của Chính phủ ban hành ngày 12 tháng 11 năm 2013

  1. Chuyên viên tư vấn:

Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn cần xác định rõ một số nội dung sau để giải quyết vấn đề của mình:

Thứ nhất, trách nhiệm của người có hành vi vi phạm, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của bạn

Ban đầu, vì bạn có quen cá nhân trên qua facebook để đặt hàng quần áo về bán nhưng những lần đầu bạn rất cẩn trọng về việc mua bán này. Tuy nhiên sau đó do đã thân quen hơn và đã thực hiện được các giao dịch thành công trước đó, sau đó bạn đã giao dịch với họ lần cuối với khoản tiền nhiều nhất trong các lần. Và sau đó không còn nhận được liên lạc của cá nhân kia, không những thế họ còn cắt đứt liên lạc với bạn. Hành vi của họ là đang lợi dụng lòng tin của bạn để nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn. Lúc bạn mua hàng thì bạn đã thực hiện việc giao dịch qua facebook là có sự giao kết thỏa thuận trước hai bên về giao dịch này, khoản tiền là ba triệu đồng, hiện bạn chỉ còn thông tin về số tài khoản bạn đã chuyển khoản cho họ và số điện thoại họ đã liên hệ với bạn còn facebook đã chặn bạn nên tin nhắn là không còn. Bạn chỉ còn lại những thông tin như trên, bây giờ bạn sẽ phải chứng minh và làm rõ vấn đề trên. Bên người bán quần áo cho bạn họ sẽ có thể bị xử phạt như sau tùy theo tính chất, căn cứ chứng minh được các dấu hiệu của hành vi mà hành vi của họ sẽ phải chịu một trong các hình thức xử phạt sau:

Mức độ nhẹ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể là:

“Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác (Nghị định 167/2013/NĐ-CP)

  1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
  2. a) Trộm cắp tài sản;
  3. b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác;
  4. c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;
  5. d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác.”

Mức độ nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
  2. a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
  3. b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

  1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
  2. a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
  3. b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  4. c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  5. d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”.

Thứ hai, các thủ tục cần làm khi gặp phải trường hợp này:

Hiện tại bạn còn bằng chứng là số tài khoản, số điện thoại, nick facebook của cá nhân đó thì chặn bạn nhưng bạn vẫn có thể tìm được qua trang facebook khác, dựa vào những thông tin còn sót lại này thì để đảm bảo quyền lợi của mình. Bạn nên gửi đơn trình báo đến cơ quan công an nơi gần nhất tức công an huyện nơi bạn đang đăng ký hộ khẩu thường trú để yêu cầu họ giải quyết vấn đề của mình gặp phải hoặc thông qua trang facebook mà bạn có thể biết được tên tuổi địa chỉ của cá nhân kia thì bạn có thể trình báo lên cơ quan công an nơi cá nhân có hành vi chiếm đoạt tài sản của bạn để họ giải quyết cho bạn vấn đề này. Khi đi đến cơ quan chức năng này bạn cân mang theo: Đơn trình báo, các bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm của chủ thể bán quần áo cho bạn.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có bị áp dụng tình tiết tăng nặng khi đánh bạc qua mạng ?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Có bị áp dụng tình tiết tăng nặng khi đánh bạc qua mạng ?

Câu hỏi khách hàng:

Kính chào Luật sư, tôi có một câu hỏi kính mong được Luật sư tư vấn: Tôi có tham gia chơi cá ngựa bằng cách liên hệ đơn vị tổ chức qua zalo. Vậy, đây có có được xem là hành vi đánh bạc qua mạng internet để áp dụng tình tiết tăng nặng hay không? Trân trọng cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

– Công văn số: 196/TANDTC-PC ngày 04 tháng 9 năm 2018 về việc áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của BLHS.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Căn cứ theo quy định tại Điều 321 BLHS 2015:

“Điều 321. Tội đánh bạc

  1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
  3. a) Có tính chất chuyên nghiệp;
  4. b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
  5. c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;…”

Theo đó, sử dụng mạng internet (trong đó bao gồm cả zalo) là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự với tội đánh bạc. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn 196/TANDTC:

“Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc).

Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber…. để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa…) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào trường hợp của bạn, hành vi cá độ của bạn có sử dụng mạng zalo để liên hệ với bên tổ chức đánh bạc thì không được gọi là hành vi sử dụng mạng internet để phạm tội theo hướng dẫn trên. Do đó, không áp dụng tình tiết tặng nặng này khi xét xử.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng