Văn bản xác định trách nhiệm pháp lý sau giải thể của doanh nghiệp phải điền thông tin của ai?

Luật sư tư vấn về trường hợp văn bản xác định trách nhiệm pháp lý của chi nhánh công ty sau giải thể yêu cầu điền thông tin của kế toán trưởng là đúng hay sai và các vấn đề pháp lý khác có liên quan.

Câu hỏi:

Chào anh chị, nhờ anh chị tư vấn giúp em trường hợp như sau: Hiện tại em đang đứng tên là kế toán trưởng của Chi nhánh, chi nhánh hạch toán độc lập. Em vừa làm kế toán tổng hợp ở công ty mẹ vừa làm kế toán trưởng chi nhánh. Em chức vụ là kế toán trưởng chi nhánh nhưng người duyệt hồ sơ, ký uỷ nhiệm chi, phiếu thu, chi là chị kế toán trưởng của công ty mẹ. Nay Ban giám đốc muốn giải thể Chi nhánh, trong hồ sơ giải thể có văn bản xác nhận trách nhiệm pháp lý sau giải thể lại yêu cầu điền thông tin của kế toán trưởng. Vậy cho em hỏi yêu cầu như vậy có đúng không? Và kế toán trưởng trong trường hợp này là ai? Xin anh chị tư vấn giúp em. Em cảm ơn nhiều ạ.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành . Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26/11/2014.

  1. Luật sư tư vấn

Thứ nhất, văn bản xác định trách nhiệm pháp lý của công ty sau giải thể.

Hiện nay pháp luật không có quy định cụ thể về trường hợp văn bản xác nhận trách nhiệm pháp lý sau giải thể của doanh nghiệp là ai. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như sau:

“1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.

Đồng thời, căn cứ vào khoản 1 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp như sau:

“1. Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp. Quyết định giải thể doanh nghiệp phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

  1. a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
  2. b) Lý do giải thể;
  3. c) Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá 06 tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể;
  4. d) Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;

đ) Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”.

Như vậy, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp,… Do đó, khi giải thể doanh nghiệp thì văn bản xác định trách nhiệm pháp lý sau giải thể sẽ phải điền thông tin của người đại diện theo pháp luật, đồng thời người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là người ký và xác nhận vào văn bản đó. Ngoài ra các mẫu văn bản xác nhận trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cũng chỉ yêu cầu điền những thông tin cơ bản của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó bạn cũng phải xem xét đây có phải là văn bản khai báo với cơ quan thuế hay không, nếu đúng là tờ khai báo với cơ quan thuế thì sẽ phải điền những thông tin của kế toán trưởng.

Thứ hai, ai là kế toán trưởng.

Để xác định kế toán trưởng trong trường hợp trên là bạn hay chị kế toán trưởng của công ty mẹ thì phải căn cứ hợp đồng lao động đã được ký kết giữa bạn và công ty, quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng của công ty để xác định ai là kế toán trưởng.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tư vấn luật lao động: Kỷ luật lao động sa thải?

Tôi lái taxi cho một công ty Vận tải ở quận Hà Đông, TP. Hà Nội. Ngày 20/8/2017, do tránh một chiếc xe đi ngược chiều nên tôi bị mất lái đâm xe vào hàng rào chắn bên đường khiến đầu xe taxi tôi lái bị hỏng và chi phí sửa chữa là 32.500.000đ. Ngày 27/8/2017, tôi nhận được Quyết định sa thải do Giám đốc ký và đóng dấu với lý do có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của công ty. Sau đó, tôi đã có ý kiến lên Giám đốc về việc này và được trả lời rằng căn cứ vào hành vi và thiệt hại của tôi gây ra để sa thải. Vậy, trường hợp này công ty sa thải tôi như vậy là đúng hay sai?

(Câu hỏi của anh Hoàng Văn T ở phường Tân Bình, TP. Thái Bình, Thái Bình)

Trả lời:

Đối với câu hỏi của anh Hoàng Văn T chúng tôi xin trả lời như sau:

– Về căn cứ áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải:

Công ty sa thải anh với căn cứ là có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của Công ty và đây là một trong những căn cứ xử lý kỷ luật sa thải theo quuy định tại Điều 126 BLLĐ 2012. Theo đó, người sử dụng lao động (NSDLĐ) được áp dụng hình thức kỷ luật sa thải nếu người lao động (NLĐ) có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động. Bộ luật lao động 2012 không có quy định cụ thể về việc xác định thế nào là “thiệt hại nghiêm trọng”. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 130 BLLĐ 2012 để xác định:

  “ Điều 130. Bồi thường thiệt hại: Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hàng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Bộ luật này.” 

Căn cứ quy định trên, có thể hiểu “thiệt hại nghiêm trọng” được xác định là trên 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố áp dụng tại nơi người lao động làm việc.

Theo thông tin anh cung cấp thì công ty anh có trụ sở tại quận Hà Đông, Tp. Hà Nội chiếu theo Nghị định 153/2016/NĐ-CP ngày 14/11/2016 thì mức lương tối thiểu vùng được áp dụng để xác định “thiệt hại nghiêm trọng” làm căn cứ sa thải đối với trường hợp của anh là 4.012.500đ, 10 tháng lương sẽ là 40.125.000đ. Do đó, mức thiệt hại của anh gây ra trên thực tế là 32.000.000đ (nhỏ hơn) là thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất và không phải là căn cứ để công ty xử lý kỷ luật sa thải đối với anh.

– Về  trình tự xử lý kỷ luật:

Trình tự xử lý kỷ luật được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ, trình tự xử lý kỷ luật sa thải phải được tiến hành như sau:

  “1. Người sử dụng lao động gửi thông báo bằng văn bản về việc tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật lao động cho Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên cơ sở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở, người lao động, cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật của người lao động dưới 18 tuổi ít nhất 5 ngày làm việc trước khi tiến hành cuộc họp.

  1. Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động được tiến hành khi có mặt đầy đủ các thành phần tham dự được thông báo theo quy định tại Khoản 1 Điều này. Trường hợp người sử dụng lao động đã 03 lần thông báo bằng văn bản, mà một trong các thành phần tham dự không có mặt thì người sử dụng lao động tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao động. Trừ trường hợp người lao động đang trong thời gian không được xử lý kỷ luật quy định tại Khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động.
  2. Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động phải được lập thành biên bản và được thông qua các thành viên tham dự trước khi kết thúc cuộc họp. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham dự cuộc họp quy định tại Khoản 1 Điều này và người lập biên bản. Trường hợp một trong các thành phần đã tham dự cuộc họp mà không ký vào biên bản thì phải ghi rõ lý do.
  3. Người giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 3 Nghị định này là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động. Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động chỉ có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động theo hình thức khiển trách.
  4. Quyết định xử lý kỷ luật lao động phải được ban hành trong thời hạn của thời hiệu xử lý kỷ luật lao động hoặc thời hạn kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động theo Điều 124 của Bộ luật Lao động, Quyết định xử lý kỷ luật lao động phải được gửi đến các thành phần tham dự phiên họp xử lý kỷ luật lao động.“

Theo thông tin anh trình bày, công ty anh chỉ ra Quyết định sa thải mà không thực hiện theo đúng trình tự xử lý kỷ luật như trên là trái quy định pháp luật.

=> Từ những căn cứ đã phân tích ở trên, việc xử lý kỷ luật sa thải của công ty đối với anh sai phạm cả về căn cứ và trình tự cho nên việc chấm dứt HĐLĐ này là trái pháp luật.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trường hợp nào một nhãn hiệu được coi là nhãn hiệu gây nhầm lẫn?

Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, đặc biệt khi liên quan đến nhãn hiệu, việc có những nhãn hiệu khá tương đồng hoặc dễ gây nhầm lẫn không phải chuyện hiếm. Dưới đây là tư vấn của Luật Hiệp Thành về những trường hợp được coi là nhãn hiệu gây nhầm lẫn hoặc không có khả năng phân biệt.

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư,

Em đang làm việc cho một công ty sản xuất dòng sản phẩm mang nhãn hiệu Hakuna. Tuy nhiên, dạo gần đây, em thấy mới xuất hiện trên thị trường một dòng sản phẩm tương tự mang nhãn hiệu Hakuma. Em muốn hỏi rằng Hakuna và Hakuma có bị coi là nhái nhãn hiệu không ạ? Em xin cảm ơn.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009), nhãn hiệu được coi là gây nhầm lẫn trong các trường hợp sau sẽ không được bảo hộ:

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước.

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép.

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài.

– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận.

– Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.

Theo thông tin mà bạn cung cấp, dòng sản phẩm Hakuma có cách viết gần giống dòng sản phẩm Hakuna đã được ra mắt trước đó, ngoài ra, hai dòng sản phẩm này còn tương tự nhau. Do đó, Hakuma là nhãn hiệu gây nhầm lẫn với nhãn hiệu Hakuna

Một số điều cần biết về khả năng phân biệt của nhãn hiệu

Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu như sau:

Điều 74: Khả năng phân biệt của nhãn hiệu

  1. Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
  2. Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
  3. a) Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu;
  4. b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến;
  5. c) Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
  6. d) Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;

đ) Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật này;

  1. e) Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
  2. g) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;
  3. h) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 95 của Luật này;
  4. i) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
  5. k) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
  6. l) Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hóa;
  7. m) Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
  8. n) Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Nhãn hiệu có được sử dụng để góp vốn trong các doanh nghiệp hay không

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Nhãn hiệu có được sử dụng để góp vốn trong các doanh nghiệp hay không?

Câu hỏi khách hàng:

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi đang là chủ sở hữu một nhãn hiệu nước mắm. Trước đây tôi chỉ kinh doanh cá nhân thôi. Nhưng nay nhận thấy hoạt động kinh doanh phát triển nên tôi muốn rủ bạn bè cùng thành lập công ty sản xuất nước mắm. Vậy, nếu thành lập thì tôi có thể sử dụng nhãn hiệu để góp vốn hay không

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009;

– Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Thứ nhất, giá trị sử dụng nhãn hiệu có thể sử dụng để góp vốn không?

Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về tài sản góp vốn như sau:

“Điều 4: Giải thích từ ngữ

  1. Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.

Điều 35: Tài sản góp vốn

  1. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
  2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn.”

Luật Sở hữu trí tuệ quy định như sau:

“Điều 4: Giải thích từ ngữ

  1. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh…”

Như vậy, tài sản góp vốn theo quy định của Luật doanh nghiệp bao gồm cả giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Và đương nhiên trong quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả quyền sở hữu công nghiệp, tức là sẽ gồm cả giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu.

Đối với trường hợp của anh thì thì anh có thể sử dụng nhãn hiệu nước mắm của mình để góp vốn thành lập doanh nghiệp cùng với bạn bè của mình. Sở dĩ giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu được phép góp vốn vì nhãn hiệu đó đã được đưa vào sản xuất kinh doanh nên ít ra nhãn hiệu đó cũng đã được một bộ phận người tiêu dùng biết đến và sử dụng chúng. Từ đó nó sẽ mang lại những lợi nhuận kinh tế cho doanh nghiệp.

Thứ hai, những khó khăn trong việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu.

Trên là quy định của Luật doanh nghiệp về việc góp vốn bằng nhãn hiệu. Rõ ràng là pháp luật có cho phép việc góp vốn này. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật không quy định rõ ràng, chi tiết về vấn đề này. Nên trên thực tế các doanh nghiệp còn khá lúng túng trong việc áp dụng quy định trên. Chính vì vậy việc góp vốn trên thực tế được lập thành hợp đồng như hợp đồng góp vốn thông thường. Các bên sẽ xác định giá trị nhãn hiệu hàng hóa theo thỏa thuận và theo đó lập hợp đồng góp vốn, trong đó quy định rõ tỷ lệ góp vốn là bao nhiêu và nghĩa vụ, quyền lợi các bên như các loại hợp đồng thương mại thông thường. Khó khăn xảy ra là việc các doanh nghiệp thực hiện góp bằng nhãn hiệu hàng hóa, vốn chưa được định giá, song lại ghi trong giấy đăng ký kinh doanh là “góp vốn bằng tiền”. Và chính “hành động góp vốn bằng tiền nhưng lại không có tiền” này sẽ gây rắc rối cho hệ thống kế toán; đồng thời, gây ra rất nhiều vướng mắc nếu doanh nghiệp góp vốn muốn rút vốn, hay doanh nghiệp nhận vốn góp không muốn tiếp tục hợp tác.

Hơn nữa, hiện nay việc một số doanh nghiệp với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng mang tên đi góp vốn với nhiều đối tác trong nhiều lĩnh vực không được đánh giá cao. Một nhãn hiệu hàng hóa đem góp vốn vào nhiều doanh nghiệp khác nhau có thể bị pha loãng giá trị. Ngược lại, có thể xảy ra trường hợp bên nhận góp vốn lạm dụng, làm giảm giá trị thương hiệu, nhãn hiệu. Ngoài ra, vì là một phần quan trọng được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ nên khi muốn đăng ký góp vốn bằng nhãn hiệu, các doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện về việc xác định giá trị nhãn hiệu. Chẳng hạn như, nhãn hiệu hàng hóa phải đảm bảo yếu tố giới hạn về không gian và thời gian… Tuy nhiên, trên thực tế nhiều doanh nghiệp chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện này nhưng họ vẫn thực hiện các thủ tục góp vốn bằng nhãn hiệu hàng hóa và có thể gặp rắc rối, rủi ro.

Vì vậy, đặt ra một yêu cầu rằng pháp luật phải có thêm những quy định cụ thể về vấn đề này. Tránh trường hợp pháp luật thì cho phép thực hiện mà các doanh nghiệp thì không biết thực hiện quy định đó như thế nào.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Đất đang thế chấp trong ngân hàng có xây dựng nhà ở được không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Đất đang thế chấp trong ngân hàng có xây dựng nhà ở được không?

Câu hỏi khách hàng:

Chào Luật sư, năm 2018 gia đình tôi có thế chấp một mảnh đất tại phường A thành phố B để vay khoản tiền 500 triệu tại ngân hàng. Nay gia đình tôi muốn xin giấy phép xây dựng để xây nhà trên đất thì có được không? Thủ tục để xin giấy phép xây dựng trong trường hợp này như thế nào?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015

– Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2014;

– Thông tư số 15/2016/TT-BXD  ngày 30 tháng 06 năm 2016 hướng dẫn về Cấp giấy phép xây dựng

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Thứ nhất, có được xây dựng nhà trên đất đang thế chấp trong Ngân hàng không?

Căn cứ quy định tại Điều 321 Bộ luật Dân sự năm 2015 về các quyền của bên thế chấp như sau:

– Khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng là tài sản thế chấp theo thỏa thuận.

– Đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp.

– Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ và lấy giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp do bên nhận thế chấp giữ khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

– Được bán, thay thế, trao đổi tài sản thé chấp, nếu tài sản đó là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này, quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền thu được, tài sản được thay thế hoặc được trao đổi trở thành tài sản thế chấp.

– Trường hợp tài sản thế chấp là khi hàng thì bên thế chấp được quyền thay thế hàng hóa trong kho, nhưng phải bảo đảm giá trị của hàng hóa trong kho đúng như thỏa thuận.

– Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý hoặc theo quy định của luật.

– Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.

Như vậy, theo quy định trên, đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, bạn vẫn được quyền làm tăng giá trị tài sản thế chấp, trong đó có việc xây dựng nhà trên đất.

Thứ hai, trình tự thủ tục xây dựng nhà trên đất đang thế chấp trong ngân hàng

Do đất này bạn đang thế chấp trong Ngân hàng, nên về thủ tục, ngoài việc xin giấy phép xây dựng tại UBND, bạn cần thông báo cho Ngân hàng về việc xây dựng nhà trên đất về đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện cung cấp các hồ sơ, tài liệu để bạn có thể thực hiện được việc xin Giấy phép xây dựng. Thông thường, Ngân hàng sẽ yêu cầu bạn ký thêm phụ lục hợp đồng để thế chấp cả ngôi nhà mới xây dựng trên đất nhằm tránh tranh chấp phát sinh sau này khi xử lý tài sản thế chấp.

Căn cứ vào Thông tư số 15/2016/TT-BXD, nếu đất của gia đình bạn đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 93 Luật xây dựng 2014 về Điều kiện cấp giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ, bạn tiến hành làm hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép xây dựng đến Ủy ban nhân dân cấp huyện (Căn cứ Điểm c, Khoản 2, Điều 17 Thông tư 15/2016/TT-BXD). Hồ sơ bao gồm:

  1. i) Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo mẫu tại Phụ lục số 1 Thông tư 15/2016/TT-BXD.
  2. ii) Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

iii) Bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp chính hai bộ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công được phê duyệt theo quy định của pháp luật xây dựng gồm:

+ Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất tỷ lệ 1/50 – 1/500 kèm theo sơ đồ vị trí công trình;

+ Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình tỷ lệ 1/50 –1/200;

+ Bản vẽ mặt bằng móng tỷ lệ 1/50 – 1/200 và mặt cắt móng tỷ lệ 1/50 kèm theo sơ đồ đấu nối hệ thống thoát nước mưa, xử lý nước thải, cấp nước, cấp điện,thông tin tỷ lệ 1/50 – 1/200.

Trường hợp thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định, các bản vẽ thiết kế quy định tại Khoản này là bản sao hoặc tệp tin chứa bản chụp các bản vẽ thiết kế xây dựng đã được các cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định.

  1. iv) Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết của chủ đầu tư bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.

Đối với nhà ở riêng lẻ dưới 03 tầng và có tổng diện tích sàn xây dựng nhỏ hơn 250 m2, hộ gia đình có thể tự tổ chức thiết kế và chịu trách nhiệm về an toàn của công trình và các công trình lân cận.

Như vậy, mặc dù đất đang thế chấp trong ngân hàng, gia đình bạn vẫn được xây nhà trên đất. Tuy nhiên bạn cần phải thống báo với Ngân hàng về việc muốn xây nhà trên đất, yêu cầu Ngân hàng cung cấp bản sao các giấy tờ và bạn 02 bộ hồ sơ như hướng dẫn ở trên đến UBND cấp quận huyện để thực hiện việc xin Giấy phép xây dựng.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tiếp tay vi phạm xây dựng có thể bị xử hình sự

Tiếp tay vi phạm xây dựng có thể bị xử hình sự
(PL)- Gần 20 cơ quan, đơn vị, cá nhân cùng chịu trách nhiệm liên quan đến vi phạm trật tự xây dựng.

“Các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý trật tự xây dựng (TTXD) nhưng thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ, buông lỏng quản lý hoặc có dấu hiệu tiếp tay, bao che cho các hành vi vi phạm TTXD thì tùy theo tính chất, mức độ sai phạm bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định…”. Đó là một trong những nội dung được UBND TP.HCM nêu trong Quyết định 30/2019 vừa ban hành, thay thế Quyết định 58/2013 về quy chế phối hợp quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn.

Công an sẽ vào cuộc mạnh tay

Trong thời gian qua, tại TP.HCM, cùng với nạn xây nhà lụi đã có một số cán bộ, công chức bị “nhúng chàm” khi tiếp tay, bao che, dung túng cho các hành vi vi phạm và đã có những cán bộ, công chức bị khởi tố hình sự (Bình Chánh, Nhà Bè…).

Trước đây Quyết định 58 chỉ nêu chung chung về trách nhiệm của ngành công an đối với lĩnh vực TTXD thì Quyết định 30 đã giao nhiệm vụ rất cụ thể cho ngành công an.

Theo đó, lực lượng công an các cấp không chỉ xây dựng phương án đảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho lực lượng chức năng tiến hành cưỡng chế công trình vi phạm mà được giao tổ chức điều tra, xử lý các hành vi vi phạm TTXD nghiêm trọng. Cùng với đó, triển khai các biện pháp nghiệp vụ nhằm phát hiện các vụ việc có dấu hiệu hình sự để điều tra, xác minh kịp thời, khởi tố khi có căn cứ.

Công an cấp huyện, cấp xã sẽ phối hợp với đội thanh tra địa bàn và các cơ quan, đơn vị có liên quan áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời ngăn chặn, xử lý công trình vi phạm, không để tái diễn. Cùng với đó sẽ rà soát các tổ chức, cá nhân đã bị xử lý vi phạm hành chính liên quan đến đất đai, xây dựng không phép, sai phép để làm cơ sở xử lý hình sự.

“Tập trung vào các vụ việc có dấu hiệu đưa, nhận hối lộ, vi phạm quy định về quản lý, sử dụng đất đai, xây dựng không phép, sai phép. Nhất là các vụ việc liên quan đến các đối tượng đầu nậu, các đối tượng móc nối với cán bộ, công chức để được bảo kê, làm ngơ cho vi phạm” – văn bản nêu.

Tiếp tay vi phạm xây dựng có thể bị xử hình sự - ảnh 1
Thanh tra sở xây dựng TPHCM lập hồ sơ xử lý các công trình xây dựng không phép tại xã Vĩnh Lộc A- Huyện Bình Chán tháng 3-2019. Ảnh: VIỆT HOA

Cơ quan cấp phép phải kiểm tra, xử lý

Trước đây việc phát hiện, xử lý nhà không phép được giao về cho UBND cấp xã, công trình xây dựng sai phép thuộc trách nhiệm xử lý của Thanh tra Sở Xây dựng.

Theo quy định mới, cơ quan nào cấp phép xây dựng, cơ quan đó sẽ phải có trách nhiệm phát hiện, xử lý vi phạm. Cụ thể, quận/huyện cấp phép xây dựng nhà ở riêng lẻ hoặc các công trình do địa phương cấp phép thì sẽ phải kiểm tra, xử lý nếu có vi phạm. Sở Xây dựng sẽ chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra các công trình xây dựng lớn, đặc thù, phức tạp do sở hoặc Bộ Xây dựng, cơ quan ngang bộ cấp giấy phép xây dựng hoặc thẩm định, phê duyệt.

Việc TP ban hành Quyết định 30 nhằm chấn chỉnh, khắc phục những yếu kém trong công tác phối hợp quản lý nhà nước về TTXD trên địa bàn TP, tiến tới chấm dứt tình trạng xây dựng không phép, sai phép, sai quy hoạch, xây dựng trên đất không được phép xây dựng mà không bị xử lý nghiêm.

Ông LÝ THANH LONGChánh Thanh tra Sở Xây dựng

Riêng công trình không phép, việc phát hiện, xử lý tiếp tục giao cho UBND cấp xã.

Ngoài trách nhiệm chính của Sở Xây dựng, quận/huyện, phường/xã/thị trấn, Quyết định 30 cũng đã giao cho gần 20 sở, ngành, cơ quan, đơn vị , cá nhân có liên quan cùng chịu trách nhiệm đối với vi phạm TTXD trên địa bàn.

Chẳng hạn, ngành TN&MT sẽ xem xét tạm dừng việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận theo yêu cầu của cơ quan chức năng. Cùng với đó, rà soát các chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn các quận ven và huyện ngoại thành để trình TP điều chỉnh phù hợp.

Sở QH-KT phối hợp với các quận/huyện rà soát các đồ án quy hoạch, ban hành các quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc, đô thị, thiết kế đô thị đủ điều kiện để cấp phép xây dựng. Sở Tư pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý nghiêm thừa phát lại, văn phòng thừa phát lại lập vi bằng trái quy định pháp luật. Nhắc nhở các tổ chức hành nghề công chứng không thực hiện công chứng trái pháp luật…

Các hành vi sẽ bị xem xét kỷ luật theo Quyết định 30:

+ Thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý hoặc có dấu hiệu bao che, tiếp tay cho vi phạm.

+ Không phối hợp hoặc thiếu trách nhiệm trong công tác phối hợp xử lý công trình vi phạm để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

+ Không phát hiện, xử lý hoặc xử lý không kịp thời theo thẩm quyền đối với thông tin phản ánh về công trình vi phạm TTXD để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

+ Không thực hiện, thực hiện không kịp thời các biện pháp ngừng thi công, đình chỉ thi công hoặc dung túng, tiếp tay cho hành vi vi phạm để công trình tiếp tục xây dựng.

+ Không thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

  Nguồn : PLO.vn

Năm 2020, Chính phủ tập trung cho thể chế và giải phóng nguồn lực

(PLVN) – Một trong những nội dung trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng trong năm 2020 sẽ là tập trung tháo gỡ từng vướng mắc cụ thể về thể chế để khai thông, giải phóng tối đa mọi nguồn lực, tạo đột phá trong các ngành, lĩnh vực.
Năm 2020, Chính phủ tập trung cho thể chế và giải phóng nguồn lực

Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11/2019

Đây là những nội dung liên tục được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc đến trong các sự kiện gần đây, với yêu cầu “năm tới phải đổi mới mạnh mẽ hơn”.

Năm 2020 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020 chuẩn bị và tạo đà cho kế hoạch 5 năm 2021-2025 và Chiến lược 10 năm 2021-2030, kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, 75 năm thành lập Nước, đồng thời là năm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào năm 2021.

Chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 và cuộc họp của Thường trực Chính phủ về dự thảo Nghị quyết 01 năm 2020, Thủ tướng nhấn mạnh công tác xây dựng thể chế, pháp luật còn là một khâu vướng mắc và đã đến lúc cần chỉ ra cụ thể nằm ở luật nào, nghị định, thông tư nào, điều khoản nào, không nói chung chung.

Cho biết sẽ thành lập Tổ công tác đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm tổ trưởng với sự tham gia của các bộ cho nhiệm vụ rà soát và xử lý các vướng mắc trên, Thủ tướng nhắc lại tinh thần thể chế, chính sách phải tạo thuận lợi cho sự phát triển, phân cấp mạnh mẽ, giao quyền chủ động cho ngành, địa phương tốt hơn nữa, nhất là cho địa phương, hạn chế xin cho, đặc biệt là giải phóng được nguồn lực, giải phóng sức sản xuất. Nếu kìm hãm nguồn lực do ý chí chủ quan của mình thì đất nước không thể phát triển được.

Trước đó, Thủ tướng cũng đã có bài viết quan trọng về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tiếp xúc cử tri Hải Phòng, Thủ tướng nêu rõ nhân dân sẽ không chấp nhận nếu chúng ta không tiến bước, cuộc sống phải phát triển hơn, đất nước phải giàu hơn, nhất là năm 2020 là năm tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

Có thể nói, với việc thành lập Tổ công tác đặc biệt và yêu cầu rà soát, tháo gỡ từng vướng mắc nằm tại từng điều khoản của các văn bản, Thủ tướng đã cho thấy quyết tâm mạnh mẽ chưa từng thấy đối với công tác hoàn thiện thể chế.

“Khát vọng vươn lên phải ở các cấp, các ngành, lan tỏa đến cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân và từng người dân. Khát vọng đó không nằm trong phòng họp mà chính là hành động trong cuộc sống”, Thủ tướng nói. Phải đổi mới tư duy, xóa bỏ thói quen cũ, lạc hậu, ỷ lại, trông chờ để tiếp tục đổi mới sáng tạo, cải thiện tốt hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh.

Dự kiến 6 trọng tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ

Báo cáo Chính phủ về dự thảo Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị 6 trọng tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, trong đó nhấn mạnh yêu cầu đổi mới thể chế và khơi thông các nguồn lực.

Dự kiến 6 trọng tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong năm 2020 là:

(1) Công tác thể chế: đẩy mạnh đổi mới, cải cách trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường các chính sách khơi thông nguồn lực; tập trung chỉ đạo thực thi pháp luật nghiêm minh.

(2) Điều hành chính sách vĩ mô linh hoạt, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; cải thiện thực chất hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh; phát huy mạnh mẽ vai trò các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn; chỉ đạo quyết liệt tiến độ thực hiện các dự án quan trọng quốc gia.

(3) Bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; tăng cường quản lý đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

(4) Tiếp tục chỉ đạo thực hiện nghiêm việc sắp xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

(5) Củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Thực hiện tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên.

(6) Thực hiện tốt công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận xã hội; phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cơ quan, tổ chức, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp; tổ chức thành công Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc; chuẩn bị tốt mọi mặt cho đại hội Đảng các cấp và hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và bầu cử Hội đồng dân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Quốc hội khóa XV.

10 nhóm giải pháp lớn

Trên cơ sở 6 trọng tâm chỉ đạo, điều hành, dự kiến xây dựng 42 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được sắp xếp trong 10 nhóm. Trong đó, nhóm giải pháp đầu tiên là về thể chế gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp.

Về điều hành vĩ mô gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp; về đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp.

Về huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị gồm 5 nhiệm vụ, giải pháp; về tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới căn bản và toàn diện giảo dục – đào tạo, đổi mới sáng tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, gồm 2 nhiệm vụ, giải pháp.

Về phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, gắn kết hài hoà với phát triển kinh tế gồm 9 nhiệm vụ, giải pháp; về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; tăng cường quản lỷ tài nguyên và bảo vệ môi trường gồm 3 nhiệm vụ, giải pháp.

Về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và quyết liệt đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gồm 3 nhiệm vụ, giải pháp.

Về củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế gồm 3 nhiệm vụ, giải pháp.

Về đẩy mạnh công tác thông tin, báo chí, truyền thông, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp gồm 2 nhiệm vụ, giải pháp.

Đồng thời, dự thảo Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2020 dự kiến có 4 Phụ lục. Phụ lục số 1 về phân giao 12 chỉ tiêu chủ yếu đã được Quốc hội thông qua cho các cơ quan để theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện và đề ra mục tiêu phấn đấu của Chính phủ.

Phụ lục số 2 về dự kiến kịch bản tăng trưởng năm 2020 làm kịch bản cơ sở và sẽ được theo dõi cập nhật tình hình định kỳ. Phụ lục số 3 về một số chỉ tiêu ngành, lĩnh vực để phấn đấu thực hiện. Phụ lục số 4 về nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan thực hiện trong năm.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện, rà lại nhiều lần để có một Nghị quyết chất lượng, đưa ra thảo luận tại Hội nghị toàn quốc giữa Chính phủ với các địa phương vào cuối tháng này.

Nguồn : baophapluat.vn

Vụ học sinh trường Gateway tử vong: Ngành giáo dục Hà Nội nhận “một phần trách nhiệm”

(NLĐO)- Ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội, khi trả lời chất vấn tại HĐND TP sáng nay 5-12 cho rằng vụ việc học sinh tử vong tại trường tiểu học Gateway có một phần trách nhiệm của ngành giáo dục Hà Nội, tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất là các cá nhân có liên quan trực tiếp.

Sáng 5-12, HĐND TP Hà Nội trong kỳ họp thứ 11 của khóa XV dành một ngày để chất vấn và trả lời chất vấn về 3 nhóm vấn đề nóng, được cử tri và người dân quan tâm.

Tại phần chất vấn về nội dung thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các trường ngoài công lập trên địa bàn thành phố hiện nay là nhóm vấn đề được đưa ra tái chất vấn tại kỳ họp. Nhắc lại vụ Gateway, đại biểu Hoàng Tú Anh yêu cầu Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Hà Nội và UBND quận Cầu Giấy phân tích nguyên nhân và trách nhiệm sau vụ việc đau lòng này.

Trả lời câu hỏi này, ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội, cho biết: “Chúng tôi ý thức được rằng ngành GD-ĐT cũng có một phần trách nhiệm. Đây là một sự việc hi hữu, sự việc rất đau xót đối với ngành, trách nhiệm lớn nhất trong sự việc này là cá nhân có liên quan, là những người đưa đón học sinh, cô giáo chủ nhiệm, ban giám hiệu nhà trường”.

Vụ học sinh trường Gateway tử vong: Ngành giáo dục Hà Nội nhận một phần trách nhiệm - Ảnh 1.

Ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội

Về nguyên nhân xảy ra sự việc đau lòng trên, ông Dũng cho rằng có lỗ hổng trong quản lý, tinh thần làm việc thiếu trách nhiệm của các cá nhân trực tiếp liên quan đến sự việc. Còn nguyên nhân cụ thể thì phải chờ xác minh, công bố của cơ quan điều tra.

Cũng theo ông Dũng, sau khi xảy ra sự việc đau lòng đó, ngành giáo dục đã có và đưa ra nhiều giải pháp để không xảy ra những vụ việc tương tự. Sở GD-ĐT đề nghị nhiều cơ quan như Công an, Sở GT-VT vào cuộc hỗ trợ để quản lý trong việc đưa đón trẻ.

Trước đó, như Báo Người Lao Động đã thông tin, chiều 6-8, cháu L.H.L., là học sinh lớp 1, Trường Phổ thông Liên cấp Quốc tế Gateway, được phát hiện tử vong trên ôtô đưa đón của nhà trường. Theo tường trình, khoảng 6 giờ ngày 6-8, tài xế Doãn Quý Phiến lái ôtô từ bãi gửi xe Học viện Báo chí và Tuyên truyền đến đón bà Nguyễn Bích Quy, nhân viên đưa đón học sinh của trường Gateway, để đi đón học sinh.

Xe này sau đó đón bé L.H.L. tại tòa nhà Trung Yên Plaza, quận Cầu Giấy. Trong số 13 học sinh đi xe, bé L. ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Khi đến trường, các cháu xuống xe nhưng tài xế và bà Quy không kiểm tra. Họ không biết cháu L. vẫn chưa xuống. Sau đó, ông Phiến đưa xe về bãi trông giữ.

Chiều cùng ngày, tài xế Phiến đánh xe về đến trường đón học sinh thì sự việc mới được phát hiện. Cháu L. được đưa đến phòng y tế của trường, sau đó được chuyển đến Bệnh viện E, nhưng được xác định tử vong từ trước.

Ngày 7-8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã ra quyết định khởi tố vụ án “Vô ý làm chết người” xảy ra tại trường Gateway. Đến ngày 27-8, VKSND quận Cầu Giấy phê chuẩn lệnh khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam 3 tháng đối với bà Nguyễn Bích Quy về hành vi Vô ý làm chết người.

Cùng tội danh nêu trên, ngày 3-9, Cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố đối với ông Doãn Quý Phiến nhưng cho ông này tại ngoại.

Ngày 17-10, ông Đinh Minh Tảo, Viện trưởng VKSND quận Cầu Giấy (TP Hà Nội), cho biết cơ quan này đã quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can Nguyễn Thị Thủy (SN 1990) về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng vì liên quan đến vụ cháu bé L.H.L. (6 tuổi, học sinh trường Gateway) tử vong trước đó vào ngày 6-8. Bị can Nguyễn Thị Thủy, là cô giáo chủ nhiệm của cháu L. được cơ quan tố tụng cho tại ngoại.

 Nguồn : nld.com.vn

Thông tin từ bộ Công an cho biết, C03 vừa triệt phá một đường dây buôn lậu quy mô lớn từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường

An ninh - Hình sự - Triệt phá đường dây buôn lậu “khủng” từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường

Các xe tải chở đường lậu.

Ngày 4/12, Bộ Công an thông tin: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (C03) đang đấu tranh triệt phá đường dây tội phạm có tổ chức buôn lậu đường cát trắng từ Campuchia về Việt Nam do Vi Hoàng Minh (sinh năm 1994, trú tại số 166 Trần Hưng Đạo, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang) cầm đầu.

Căn cứ vào kết quả điều tra và tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an xác định: Vi Hoàng Minh là đối tượng chủ mưu, đứng ra chỉ đạo đồng bọn thực hiện hành vi mua bán, vận chuyển trái pháp luật đường cát trắng từ Campuchia về Việt Nam.

Trong đó, Vi Hoàng Minh trực tiếp mua, thanh toán tiền đường cát trắng tại Campuchia; chỉ đạo đồng bọn mang các vỏ bao in nhãn mác ghi tên công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Một thành viên Kim Hưng Lợi (do Vi Hoàng Minh là người được ủy quyền điều hành) từ Việt Nam sang Campuchia để thay vỏ bao đường in chữ nước ngoài nhằm che giấu, đối phó với cơ quan chức năng kiểm tra trong quá trình vận chuyển.

Vi Hoàng Minh còn tổ chức lực lượng thuê người bốc vác, vận chuyển hàng bằng ghe từ Campuchia về Việt Nam qua đường Rạch, kênh Vĩnh Tế (thuộc ấp Bà Bài, xã Vĩnh Tế, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

Tiếp sau đó, các đối tượng thuê xe ô tô tải chở hàng từ bãi tập kết (bãi Cống Đồn, ấp Bà Bài) về kho của công ty TNHH Di Thạnh (địa chỉ đường Tôn Đức Thắng, phường Mỹ Thành, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang).

An ninh - Hình sự - Triệt phá đường dây buôn lậu “khủng” từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường (Hình 2).

Đối tượng cầm đầu Vi Hoàng Minh.

Đồng thời, băng nhóm này còn rất tinh quái, chúng tổ chức lực lượng canh gác, cảnh giới dọc tuyến đường ra, vào từ khu vực bãi bốc hàng về kho nhằm phát hiện, đối phó các lực lượng chức năng.

Toàn bộ số lượng đường cát trắng được vận chuyển từ kho của công ty TNHH Di Thạnh đến kho của công ty TNHH Một thành viên Kim Hưng Lợi (tại phường Thốt Nốt, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ) và các nơi khác để tiêu thụ.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại công ty TNHH Một thành viên Kim Hưng Lợi và Công ty TNHH Di Thạnh, thu giữ gần 1.000 tấn đường cát trắng, trị giá hàng tỷ đồng.

Ngày 3/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Buôn lậu” xảy ra tại tỉnh An Giang; ra các Quyết định khởi tố bị can, Lệnh tạm giam đối với 04 đối tượng về tội  “Buôn lậu” theo quy định tại khoản 4 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015, gồm:  Vi Hoàng Minh; Lê Chung Thành; Lê Vũ Phong; Đặng Bảo Huy.

An ninh - Hình sự - Triệt phá đường dây buôn lậu “khủng” từ Campuchia về Việt Nam, thu giữ gần 1.000 tấn đường (Hình 3).

Số đường tang vật bị thu giữ.

Sau khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn các Quyết định và Lệnh nêu trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã thi hành Lệnh tạm giam các bị can theo đúng quy định pháp luật.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an cho biết, đang tập trung điều tra mở rộng vụ án, áp dụng các biện pháp theo luật định để làm rõ tính chất, vai trò, hành vi phạm tội của các bị can và đối tượng có liên quan; thu hồi, kê biên triệt để tài sản cho Nhà nước.

  • Theo : Nguoiduatin.vn

Quy định chung về chuyển nhượng quyền tác giả

Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật quy định rất cụ thể đảm bảo quyền của các chủ thể. Theo khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ quy định việc chuyển nhượng quyền tác giả là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật liên quan đối với các quyền sau:

– Công bố tác phấm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (khoản 3, Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ)

– Các quyền liên quan đến quyền tài sản (Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ).

  1. Quyền nhân thân không được phép chuyển nhượng:

– Quyền đặt tên cho tác phẩm;

– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

– Riêng quyền nhân thân công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm thì vẫn được chuyển nhượng.

  1. Đặc điểm hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả

Ngoài các đặc điểm chung của Hợp đồng theo Bộ luật dân sự thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả có những đặc điểm sau:

+ Là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu. Sau khi chuyển nhượng, bên chuyển nhượng sẽ không còn quyền sử dụng, định đoạt các quyền năng đó.

+ Trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thoả thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu.

+ Trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác.

3. Nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả

Khi tiến hành ký kết một hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả thì nội dung của hợp đồng phải đảm bảo các điều khoản quy định tại Điều 46 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 như sau:

“1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan phải được lập thành văn bản gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

  1. a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng;
  2. b) Căn cứ chuyển nhượng;
  3. c) Giá, phương thức thanh toán;
  4. d) Quyền và nghĩa vụ của các bên;

đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

  1. Việc thực hiện, sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự.”

Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả cần đẩy đủ các nội dung theo Điều 46 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Việc sửa đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy bỏ Hợp đồng này áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả là bao lâu?

Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Đối với từng loại quyền khác nhau thì thời hạn bảo hộ là khác nhau kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu. Cụ thể như sau:

  1. Bảo hộ vô thời hạn

Căn cứ Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 thì quyền nhân thân bao gồm quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Trong đó thì các quyền sau sẽ được bảo hộ vô thời hạn đó là:

– Quyền đặt tên cho tác phẩm;

– Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

– Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

  1. Bảo hộ có thời hạn

– Quyền nhân thân: Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là quyền được bảo hộ trong thời hạn 50 năm.

– Quyền tài sản: Bao gồm nhiều loại khác nhau, do đó thời hạn bảo hộ là khác nhau. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các quyền tài sản mà pháp luật quy định thời hạn bảo hộ dài ngắn là khác nhau:

Thứ nhất, tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Cần lưu ý như sau, trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình thì:

+ Nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình.

+ Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính như sau: Suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo, trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết

+ Đối với những tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh được công bố thời hạn bảo hộ sẽ dài hơn so với tác phẩm không được công bố. Khi được công bố thì sẽ tính từ thời điểm tác phấm được công bố, còn không được công bố tính từ thời điểm tác phấm được hình thành.

Thứ hai, tác phẩm không thuộc loại hình nên trên thì có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.

Những tác phẩm có đặc điểm khác nhau về quá trình hình thành, giá trị khác nhau nên thời hạn bảo hộ cũng khác nhau. Như vậy đảm bảo thời hạn bảo hộ hiệu quả cho từng loại tác phẩm.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có được đặt tên cho tác phẩm dịch không?

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sách, báo, truyện,… do các tác giả người nước ngoài sáng tác và được dịch ra tiếng Việt. Vậy có được đặt lại tên cho tác phẩm dịch không?

Căn cứ Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về quyền nhân thân của tác giả như sau:

1. Đặt tên cho tác phẩm.

  1. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
  2. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố 
  3. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.”

Theo quy định trên, đặt tên cho tác phẩm là quyền nhân thân của tác giả. Quyền nhân thân được hiểu là quyền gắn liền với bản thân tác giả mà không thể chuyển giao cho người khác. Do vậy, quyền đặt tên cho tác phẩm là quyền của tác giả và được bảo hộ vô thời hạn. Tác giả có quyền không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào.

Mặt khác, căn cứ khoản 1 Điều 20 Nghị định 22/2018/NĐ-CP thì quyền nhân thân được quy định như sau: “Quyền đặt tên cho tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật sở hữu trí tuệ. Quyền này không áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác”.

Việc đặt tên tác phẩm bằng tiếng Việt không thuộc quyền nhân thân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc dịch lại tác phẩm, đặt tên bằng tiếng Việt vẫn phải xin phép tác giả, vì tác phẩm dịch thuộc tác phẩm phái sinh theo quy định của pháp luật. Khoản 8 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tác phẩm phái sinh như sau: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn”.

Một trong các hành vi xâm phạm quyền tác giả là làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Như vậy, tác giả có quyền đặt tên cho tác phẩm của mình, tuy nhiên quyền này không được áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Điều này nhằm mục đích bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm gốc.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email: luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng