Đơn phương ly hôn và việc giành quyền nuôi con sau khi ly hôn?

Quyền nuôi con đối với thủ tục ly hôn đơn phương được xác định như thế nào ? Dựa vào những tiêu chí, quy định pháp luật nào để tòa án phân định quyền nuôi con cho các bên vợ hoặc chồng ? Vấn đề này sẽ được luật sư tư vấn và giải đáp cụ thể:

Câu hỏi khách hàng:

Mình và chồng đã sống ly thân từ lâu (chồng mình tự ý sống ly thân nay được 16 tháng. Từ khi chính thức thông báo với mình là ngày 19 tháng 11 năm 2017 đến nay) cũng ko có tài sản và nợ chung mình có 1 con chung 21 tháng. Từ nhỏ tới giờ 1 mình chăm sóc con với phụ giúp của ông bà trông giùm buổi ngày 1 số lúc mình bận. Chồng mình giờ chỉ muốn bạo hành về tinh thần cho đến lúc mình ko chịu đựng được nữa sẽ phải bỏ đi.

Cho mình hỏi giờ mình làm gì để dc quyền nuôi con. Mình viết đơn được không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014;

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Thứ nhất, Chị có quyền viết đơn và yêu cầu ly hôn đơn phương. Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình việc giải quyết thủ tục ly hôn có thể tiến hành theo 2 hướng:

1/ Thuận tình ly hôn: cả hai cùng đồng ý ly hôn và cùng ký tên trên đơn và thỏa thuận được các vấn đề về quyền nuôi con sau khi ly hôn và phân chia tài sản không còn tranh chấp gì.

2/ Đơn phương ly hôn (Yêu cầu ly hôn từ 1 phía): Trường hợp 1 bên vợ hoặc chồng không đồng ý ly hôn thì có thể giải quyết theo hướng đơn phương ly hôn

“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

  1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.”

“Điều 55. Thuận tình ly hôn

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

  1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

=> Như vậy: Chị có quyền đơn phương ly hôn (tự viết đơn)

Thứ hai, Về quyền giành quyền nuôi con

Với thông tin chị cung cấp con chị 21 tháng tuổi thì theo quy định tại khoản 3 Điều 81, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng hoặc có thỏa thuận với người cha.

Vậy: Chị sẽ được quyền nuôi con trong trường hợp này do con dưới 36 tháng tuổi.

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

  1. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng bị xâm phạm

Nếu tai nạn lao động xảy ra tại nơi sản xuất, nhưng người bị tai nạn lao động không phải là lao động do doanh nghiệp thuê và cũng không có trong sách bốc xếp ký kết với doanh nghiệp, ông tổ trưởng bốc xếp tự ý lén đưa cháu mình chưa đủ tuổi lao động vào doanh nghiệp để làm . Vậy doanh nghiệp có phải chịu trách nhiệm chi trả tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân hay không? Luật Hiệp Thành có một số tư vấn pháp lý liên quan đến vấn đề này như sau:

Câu hỏi:

Nếu tai nạn lao động xảy ra tại nơi sản xuất, nhưng người bị tai nạn lao động không phải là lao động do doanh nghiệp thuê và cũng không có trong sách bốc xếp ký kết với doanh nghiệp, ông tổ trưởng bốc xếp tự ý lén đưa cháu mình chưa đủ tuổi lao động vào doanh nghiệp để làm (vì tiền lương bốc xếp tính theo khối lượng công việc và ông tổ trưởng là người đại diện ký hợp đồng theo danh sách kê khai với doanh nghiệp và có trách nhiệm nhận tiền để phân phát lại cho các lao động trong danh sách bốc xếp đã khai báo với doanh nghiệp). Không may cháu ông bị tai nạn lao động và đã chết sau hai ngày điều trị tại bệnh viện. Doanh nghiệp đã có trách nhiệm lo chi phí đưa cháu đến bệnh viện cấp cứu và khai báo ngay với chính quyền địa phương. Trường hợp lao động này doanh nghiệp không thuê mướn, nhưng tai nạn đáng tiếc đã xảy ra, tổ trưởng bốc xếp đã nhận lỗi của mình, nhưng gia đình nạn nhân lại đòi doanh nghiệp phải chi trả 100 triệu đồng, doanh nghiệp cảm thấy không thỏa đáng. Xin hỏi Luật sư doanh nghiệp có phải chịu trách nhiệm chi trả tiền bồi thường cho gia đình nạn nhân hay không? Vì thực tế lao động này doanh nghiệp hoàn toàn không biết, và ông tổ trưởng bốc xếp cũng đã nhận lỗi và khai báo rõ ràng với chính quyền là vì thương hoàn cảnh gia đình của nạn nhân quá khó khăn, nhiều lần năn nỉ ông nên ông mới lén đưa cháu vào làm nên không báo cho doanh nghiệp biết. Như vậy về phía ông tổ trưởng bốc xếp có phải chịu trách nhiệm gì về sự việc này hay không? (nạn nhân là em trai 13 tuổi). Xin cảm ơn Luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiêp Thành . Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự năm 2015;

– Luật Lao động năm 2012.

  1. Luật sư tư vấn

Trách nhiệm của công ty

Theo quy định tại điều 142 Bộ luật lao động năm 2012 thì:

“Điều 142. Tai nạn lao động

  1. Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

Quy định này được áp dụng đối với cả người học nghề, tập nghề và thử việc.

  1. Người bị tai nạn lao động phải được cấp cứu kịp thời và điều trị chu đáo.
  2. Tất cả các vụ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các sự cố nghiêm trọng tại nơi làm việc đều phải được khai báo, điều tra, lập biên bản, thống kê và báo cáo định kỳ theo quy định của Chính phủ”.

Tuy nhiên, tai nạn lao động xảy ra tại nơi sản xuất nhưng người bị tai nạn lao động không phải là lao động do doanh nghiệp thuê và cũng không có trong sách bốc xếp ký kết với doanh nghiệp, giữa người lao động và doanh nghiệp không có bất kì thỏa thuận hay hợp đồng lao động nào mà do người tổ trưởng tự ý đưa cháu mình vào làm việc. Công ty sẽ không phải bồi thường trong trường hợp này, gia đình cháu bé buộc công ty phải bồi thường 100 triệu là không thỏa đáng.

Trách nhiệm của người tổ trưởng

Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

  1. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
  2. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

Vấn đề bồi thường trong trường hợp này thuộc về dân sự chứ không phải lao động, trách nhiệm bồi thường ở đây sẽ là bồi thường ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Vì người tổ trưởng có trách nhiệm quản lý mà đã tự ý đưa cháu chưa đủ tuổi lao động vào làm việc thì đã vi phạm về trật tự an toàn nơi làm việc. Như vậy, thì người tổ trưởng có trách nhiệm phải bồi thường cho cháu của mình. Theo quy định tại Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm sẽ bao gồm các chi phí:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

  1. a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
  2. b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  3. c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
  4. d) Thiệt hại khác do luật quy định.
  5. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Người thân của người bị thiệt hại có thể yêu cầu người tổ trưởng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp.

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tư vấn trường hợp ly hôn đơn phương khi chồng đang chấp hành hình phạt tù

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về:

Câu hỏi khách hàng:

Tôi và chồng tôi ly thân 8 năm có một con chung. Chúng tôi không có tài sản chung. Hiện tại chồng tôi đang bị đi tù, vậy tôi phải làm thủ tục như thế nào để ly hôn nhanh chóng thưa luật sư?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014;

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Khi hôn nhân lâm vào tình trạng mâu thuẫn, bất đồng, không thể hàn gắn được, các cặp đôi thường cân nhắc đi tới quyết định ly hôn. Tuy nhiên, sẽ ly hôn như thế nào khi một trong hai bên không ở nơi cư trú, ở nước ngoài hay chấp hành án phạt tù là một vấn đề mà nhiều người đang quan tâm. Đối với trường hợp của bạn, chồng bạn đang trong thời gian chấp hành án phạt tù, vậy bạn cần làm như thế nào để được giải quyết việc ly hôn?

Ly hôn là quyền của một trong hai bên vợ chồng hoặc cả hai bên khi mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Bạn và chồng bạn đã kết hôn và ly thân được 08 năm, chồng bạn đã đi tù do vậy mục đích của hôn nhân là vợ chồng chăm sóc, yêu thương lẫn nhau không đạt được, nếu bạn có yêu cầu thì Tòa án nhân dân sẽ giải quyết ly hôn nếu có căn cứ hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng để yêu cầu ly hôn đơn phương.

Như bạn đã trình bày, trước khi chồng bạn đi tù thì vợ chồng bạn cũng đã ly thân được 08 năm, tức việc chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau của vợ chồng bạn là không hề tồn tại trong suốt thời gian đó, vợ chồng bạn từ lâu đã ai sống biết bổn phận của người ấy.

Nếu bạn có các chứng cứ chứng minh yêu cầu ly hôn của mình là hợp pháp thì Tòa án nhân dân sẽ giải quyết ly hôn: Biên bản nhắc nhở, hòa giải của tổ dân phố, lời làm chứng của họ hàng, gia đình về việc đã khuyên nhủ vợ chồng bạn trở về sống với nhau nhưng không thành…

Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ:

“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

  1. a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;”

Tranh chấp giữa bạn và chồng là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, nếu bạn muốn yêu cầu giải quyết ly hôn đơn phương thì bạn phải nộp đơn tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn đang cư trú. Tuy nhiên, do chồng bạn đang thi hành án tại trại giam nên bạn cần có giấy xác nhận của Ban quản lý trại giam nơi chồng bạn đang chấp hành án phạt tù để làm căn cứ xác định nơi cư trú hiện tại của chồng bạn. Khi đó, nơi nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn giữa bạn với chồng là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi đặt trụ sở trại giam.

Khi yêu cầu giải quyết ly hôn đơn phương, bạn cần chuẩn bị những giấy tờ sau:

– Chứng cứ chứng minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bạn đã lâm vào trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được để làm căn cứ để Tòa án giải quyết ly hôn;

– Đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn đơn phương;

– Bản chính giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;

– Bản sao có công chứng, chứng thực Sổ hộ khẩu của cả hai vợ chồng; giấy xác nhận của Ban quản lý trại giam nơi chồng bạn đang chấp hành án phạt tù;

– Bản sao có chứng thực chứng minh nhân dân/ Căn cước công dân/ Hộ chiếu của cả hai vợ chồng;

– Bản sao có chứng thực giấy khai sinh của con;

– Bản sao có chứng thực các giấy tờ chứng minh tài sản chung nếu có tranh chấp.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tư vấn trường hợp công ty không trả lương theo đúng thỏa thuận

Tiền công – tiền lương là một vấn đề quan trọng trong mảng luật lao động. Pháp luật quy định như thế nào đối với trường hợp công ty không trả lương theo đúng thỏa thuận ? Luật Hiệp Thành có một số tư vấn như sau:

Hỏi: Chào luật sư! Tôi có 1 vài thắc mắc muốn nhờ luật sư tư vấn giúp như sau: Trước đây tôi có làm cho 1 cty về lĩnh vực xây dựng (chuyên ngành là tư vấn thiết kế cầu đường), trong quá trình làm việc tôi cũng không có hợp đồng lao động, tất cả chỉ thỏa thuận bằng miệng. Công ty trả lương theo hình thức làm khoán, công ty khoán lại cho tôi 20% tiền công trình trả về cho cty. Trong 20% này sẽ chia nhỏ ra ứng với mỗi người làm phần việc gì trong đó và theo quy chế của công ty đề ra. Khi tôi nghỉ viêc, phần tiền tôi đáng được hưởng theo đúng quy định của công ty thì bên công ty nói là số tiền đó để làm công tác giám sát quyền tác giả (cái này không có trong quy chế của công ty) nên công ty đó không trả tiền cho tôi. Và trong quá trình làm việc tại đó thì công ty đó đã sử dụng tên của tôi, chứng chỉ hành nghề của tôi để làm hồ sơ (tất cả các hồ sơ công trình mà tôi làm đều lấy tên tôi làm chủ nhiệm dự án) hiện đã có vài công trình đang thi công, 1 số đã làm xong, 1 số đã có hồ sơ thẩm định của cơ quan nhà nước. Có công trình đang thi công, tôi đã đến tận nơi làm 1 biên bản hiện trường với nội dung tôi là giám sát tác giả, đã có chữ ký, dấu của đơn vị thi công, của đơn vị tư vấn giám sát kèm theo. Cho tôi hỏi là bây giờ tôi có thể kiên công ty kia về việc sử dụng bằng cấp, tên tuổi của tôi mà không được sự đồng ý của tôi có được không? Và tôi có thể kiên ở đâu? Địa chỉ công ty kia ở Hà Đông, Hà Nội. Rất mong sớm nhận được hồi âm! Trân trọng!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành . Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012;

– Nghị định số 95/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 22/08/2013.

  1. Luật sư tư vấn

Với vấn đề công ty không trả lương theo đúng thỏa thuận

Điều 95 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về kỳ hạn trả lương như sau:

“1. Người lao động hưởng lương giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thoả thuận, nhưng ít nhất 15 ngày phải được trả gộp một lần.

  1. Người lao động hưởng lương tháng được trả lương tháng một lần hoặc nửa tháng một lần.
  2. Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thoả thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.”

Điều 96 Bộ Luật lao động 2012 quy định về nguyên tắc trả lương như sau:

“Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn”

Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.”

Như vậy, với trường hợp của bạn bạn và công ty có thỏa thuận với nhau về vấn đề trả lương sau khi hoàn thiện các công trình. Tuy nhiên, công ty lại không trả lương theo đúng thỏa thuận đã cam kết gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bạn. Mặc dù bạn không ký kết hợp đồng lao động với Công ty nhưng trên thực tế bạn có làm việc cho công ty, các hợp đồng, công trình của công ty được thực hiện dưới tên của bạn do đó trường hợp này bạn có thể gửi đơn khiếu nại đến Giám đốc của công ty yêu cầu giải quyết, nếu công ty vẫn không giải quyết quyền lợi cho bạn bạn có thể gửi yêu cầu giải quyết đến Phòng lao động thương binh và xã hội quận huyện nơi công ty có trụ sở để yêu cầu giải quyết.

Với vấn đề khởi kiện công ty: Mặc dù bạn làm việc tại công ty không có hợp đồng lao động tuy nhiên các nhân viên tại công ty, các bên liên kết với công ty bạn để thực hiện dự án, công trình có thể chứng minh trước đây bạn là nhân viên của công ty, là người phụ trách các hạng mục công trình của công ty. Do đó, trường hợp này bạn khởi kiện công ty về vấn đề tự ý sử dụng tên, bằng cấp của mình là không hợp lý.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tư vấn về hủy hợp đồng mua mỹ phẩm trả góp qua ngân hàng

Luật sư tư vấn về trường hợp hủy hợp đồng mua mỹ phẩm trả góp qua ngân hàng. Nội dung tư vấn như sau:

Câu hỏi: Chào Luật sư. Em có nghe tư vấn mua 1 bộ mỹ phẩm của D theo hình thức trả góp 18 tháng, và trả qua ngân hàng. Hợp đồng 3 bên được ký vào ngày 13/3/2019. Nhưng ngay trong ngày 13/3 em đã gọi cho nhân viên và mang mỹ phẩm đến trả và yêu cầu hủy hợp đồng. Sau đấy nhân viên hẹn em hai ngày sau sang gặp và em có mang sản phẩm sang trả lại và yêu cầu hủy bỏ hợp đồng hay thanh lý hợp đồng, còn sản phẩm em đã trả lại công ty. Và quản lý công ty có gọi cho em và báo đã hủy hợp đồng. Nhưng bên ngân hàng lại báo là bên em mua mỹ phẩm báo là khách vẫn đang dùng sản phẩm. Vậy cho em hỏi thì em có quyền Huỷ bỏ hợp đồng không ạ. Em cảm ơn Luật sư!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành . Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, về quyền hủy bỏ hợp đồng.

Điều 423 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây:

  1. a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
  2. b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
  3. c) Trường hợp khác do luật quy định.
  4. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
  5. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”

Như vậy, bạn có thể hủy bỏ hợp đồng mà không phải bồi thường trong trường hợp hai bên có thỏa thuận về điều khoản hủy bỏ hợp đồng, bên bán vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng dẫn đến bạn không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng, trường hợp bên bán chậm thực hiện nghĩa vụ…

Với những trường hợp bạn muốn hủy bỏ hợp đồng không có lý do hoặc không thuộc các trường hợp kể trên: do hai bên thỏa thuận, do luật quy định, khi đó, việc bạn thanh lý hợp đồng với công ty mỹ phẩm là trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng theo Điều 428 Bộ luật Dân sự năm  2015:

“1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

  1. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

…”

Thứ hai, về hậu quả của việc hủy hợp đồng.

Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:

“1. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.

  1. Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.

Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.

  1. Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ quy định tại các điều 423, 424, 425 và 426 của Bộ luật này thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.”

Khi bạn hủy bỏ hợp đồng mua bán mỹ phẩm này, hợp đồng ba bên giữa bạn, công ty mỹ phẩm và ngân hàng sẽ chấm dứt, bạn hoàn trả mỹ phẩm cho công ty và quan hệ giữa bạn và ngân hàng sẽ chấm dứt kể từ khi bạn thông báo hủy hợp đồng. Ngoài ra, nếu xác định được một số chi phí cho việc thực hiện hợp đồng hay trong hợp đồng có các điều khoản phạt vi phạm, xác định trách nhiệm khi hủy hợp đồng, bạn sẽ phải hoàn trả các chi phí này và bồi thường theo các thỏa thuận trong hợp đồng.

Trường hợp bạn hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ, hợp đồng ba bên bị chấm dứt và bạn có nghĩa vụ bồi thường do không thực hiện đúng nghĩa vụ.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trình tự, thủ tục để được thăm gặp phạm nhân?

Những ai được phép thăm gặp phạm nhân, chế độ và trình tự như thế nào? Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về quy định về việc thăm gặp phạm nhân?

Luật sư tư vấn:

  1. Cơ sở pháp lý:

– Luật đất đai số 13/2003/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003;

– Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai;

– Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai.

  1. Nội dung tư vấn:
  2. Trình tự, thủ tục

Bước 1: Cá nhân chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo quy định của pháp luật

Bước 2: Cá nhân nộp hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa thuộc UBND cấp xã.

– Thời gian tiếp nhận hồ sơ: Tất cả các ngày làm việc trong tuần (trừ ngày lễ)

Bước 3: Công chức tiếp nhận và kiểm tra tính pháp lý, nội dung hồ sơ:

– Nếu hồ sơ hợp lệ thì viết giấy hẹn;

– Nếu hồ sơ không hợp lệ thì hướng dẫn cá nhân hoàn thiện theo đúng quy định.

Bước 4: Công chức chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền giải quyết và trả kết quả theo giấy hẹn

Bước 5: Cá nhân nhận kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa thuộc UBND cấp xã

  1. Hồ sơ

– Thành phần hồ sơ (01 bộ), bao gồm:

+ Đơn xin xác nhận đất không có tranh chấp (tự viết)

+ Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất

+ Văn bản uỷ quyền xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).

+ Bản sao Giấy chứng minh nhân dân có chứng thực

  1. Nơi nhận hồ sơ

-Trực tiếp tại UBND cấp xã

  1. Thời hạn

– 05 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

  1. Lệ phí thực hiện

– Không có

———————————————–

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Xin cấp GCNQSDĐ đối với diện tích tăng thêm không có trong giấy chứng nhấn quyền sử dụng đất

Trường hợp xử lý đối với diện tích đất tăng thêm không có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất? Sau đây, Luật sư Nguyễn Hào Hiệp và Cộng sự đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Diện tích đất tăng thêm không có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Câu hỏi khách hàng:

Xin chào công ty Luật. Gia đình tôi có sử dụng thửa đất hơn 120 m2 ổn định từ những năm 80 cho đến nay. Nguồn gốc nhà đất trước là 2 gian đầu hồi nhà tập thể tại tập thể. Gia đình tôi đã được cấp GCNQSDĐ cho diện tích hơn 100 m2.

Tuy nhiên nhà tôi vẫn còn khoảng đất đầu hồi gian nhà 20m2 vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Tôi xin gửi giấy chứng nhận sử dụng đất hiện nay trong phần đính kèm. Trong đó có ghi rõ thửa đất hiện tại nhà tôi đang sử dụng. Phần tôi bôi màu xanh là phần chưa có sổ đỏ. Gia đình tôi nay muốn hợp thức hóa nốt phần diện tích 20m2 kia. Công ty luật xem xét và nghiên cứu giúp trường hợp đất nhà tôi có thể làm giấy chứng nhận sử dụng đất được hay không. Mọi thông tin xin liên hệ lại với tôi. Trân trọng cảm ơn!.

Luật sư tư vấn:

  1. Căn cứ pháp lý:

– Luật đất đai số 45/2013/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013

– Nghị định 43/2014/NĐ-CP Nghị định của Chính Phủ ban hành ngày 15 tháng 05 năm 2014 quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 (sau đây gọi là Luật Đất đai.

– Nghị định 01/2017/NĐ-CP Nghị định của Chính Phủ ban hành ngày 06 tháng 01 năm 2017 về việc sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai.

  1. Nội dung tư vấn:

Dựa trên những thông tin mà bạn cung cấp chúng tôi đưa ra phương án tư vấn như sau:

Cần xác định 20m2 ở vị trí đầu hồi gian nhà có thuộc sở hữu của chủ sở hữu nào xung quanh hay của các hộ dân lân cận hay không. Trường hợp mảnh đất này không thuộc quyền sở hữu của ai thì cần xác định mảnh đất này có bị tranh chấp hay không. Mảnh đất nếu không có tranh chấp với bất kỳ ai thì cần thực hiện một biên bản xác nhận về việc không có bất kỳ một tranh chấp nào với phần đất 20m2 dư ra và cần có chữ ký xác nhân của các hộ dân có ranh giới liên kề với mảnh đất này

Căn cứ theo Khoản 5 Điều 98 Luật Đất Đai 2013 quy định về nguyên tắc sử dụng đất:

“5. Trường hợp có sự chênh lệch diện tích giữa số hiệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này hoặc Giấy chứng nhận đã cấp mà ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề thì khi cấp hoặc cấp đổi Giấy chứng nhân quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích đất được xác định theo số liệu đo đạc thực tế. Người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch nhiều hơn nếu có.

Trường hợp đo đạc lại mà ranh giới thửa đất có thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất và diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì phần diện tích chênh lệch nhiều hơn (nếu có) được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Điều 99 của Luật này.

Như vậy, cần xác định xem ranh giới thửa đất bạn đang sử dụng có thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất hay không. Ở đây có hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, ranh giới sử dụng đất không có sự thay đổi so với ranh giới tại thời điểm có giấy chứng nhận thì khi đó gia đình bạn sẽ được cấp hoặc cấp đổi giấy chứng nhận với diện tích xác định theo số liệu đo đạc thực tế và gia đình bạn không phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch nhiều hơn (nếu có).

Trường hợp thứ hai, ranh giới sử dụng đất có sự thay đổi so với ranh giới tại thời điểm có giấy chứng nhận.

Trong trường hợp này, áp dụng quy định tại Điều 24a Nghị định 43/2014/NĐ-CP (Sửa đổi, bổ sung bởi khoản 20 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP) như sau:

“3. Trường hợp diện tích đất tăng thêm không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 của Luật đất đai, Điều 18 của Nghị định này thì thực hiện như sau:

  1. a) Trường hợp người sử dụng đất không vi phạm pháp luật về đất đai thì việc xem xét xử lý và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất tăng thêm thực hiện theo quy định tại Điều 20 của Nghị định này;
  2. b) Trường hợp diện tích đất tăng thêm do người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì xem xét xử lý và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất tăng thêm thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Nghị định này”.

Như vậy, trường hợp của bạn có mảnh đất dư ra 20m2 so với giấy chứng nhận đã cấp thì sẽ được xem xét xử lý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần tăng thêm như sau:

 

– Nếu bạn không vi phạm pháp luật đất đai thì việc xem xét cấp giấy chứng nhận được thực hiện theo quy định tại Điều 20 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP.

– Nếu bạn vi phạm pháp luật về đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì việc xem xét cấp giấy chứng nhận thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 01/2017/NĐ-CP (trong đó việc “sử dụng đất ổn định được xác định theo căn cứ tại Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP).

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Nữ giúp việc cắm đầu bé 14 tháng xuống đất, cầm chân quay như chong chóng

Anh Hoàng Anh T. vừa có đơn trình báo tới Công an TP Vinh về việc con gái anh là H.T.A. (14 tháng tuổi) bị người giúp việc bạo hành.

Theo anh T. (SN 1992, trú phường Hưng Bình, TP Vinh, Nghệ An), tối 4/12, vì có việc bận nên vợ chồng anh để con gái ở nhà với người giúp việc là bà Nguyễn Thị Doan (SN 1972, trú tại huyện Đô Lương) chăm sóc.

Sáng hôm sau, khi vợ anh là chị Phạm Thu H. về nhà, bà Doan phàn nàn về việc, tối hôm trước cháu bé quấy khóc, không chịu ngủ.

Nữ giúp việc cắm đầu bé 14 tháng xuống đất, cầm chân quay như chong chóng
Camera ghi lại cảnh bà Doan bạo hành cháu bé

Linh tính có chuyện chẳng lành, chị H. mở camera ra xem thì thấy cảnh con gái bị bà Doan cầm 2 chân dốc ngược lên, lắc qua lại nhiều lần.

Hình ảnh từ camera cho thấy, bà Doan ru cháu A. ngủ trên giường nhưng cháu quấy khóc nên bà lớn tiếng quát.

Cháu A. vẫn không chịu ngủ, người phụ nữ này đã cầm chân dốc ngược đứa trẻ xuống giường rồi nói “có đi ngủ không” khiến đứa bé càng khóc lớn tiếng.

Chưa dừng lại ở đó, bà Doan còn đưa cháu bé xuống sàn nhà rồi vẫn cầm chân lắc mạnh.

Nữ giúp việc cắm đầu bé 14 tháng xuống đất, cầm chân quay như chong chóng
Cháu bé vẫn chưa hết sợ hãi

Vợ chồng anh T. gặng hỏi bà Doan nhưng người giúp việc vẫn một mực chối. Chỉ khi xem lại hình ảnh camera, bà Doan mới chịu thừa nhận hành vi của mình.

“Quá tức giận và sợ không kìm chế được nên tôi yêu cầu người này rời khỏi nhà mình và cho 2 triệu đồng để có tiền đón xe về quê”, anh T. bức xúc nói.

Chị H. cho biết, gia đình không muốn làm lớn chuyện nhưng vì hành động của bà Doan quá tàn nhẫn nên tối qua chị đến Công an TP Vinh trình báo sự việc.

Bà Doan đến giúp việc tại nhà chị H. được gần 1 tháng thông qua công ty mô giới việc làm.

Nguồn : vietnamnet.vn

Bình Dương tuyển hàng chục cán bộ chưa đủ bằng cấp

Trong gần 3 năm, tỉnh Bình Dương tuyển dụng hàng chục cán bộ chưa đủ bằng cấp, chứng chỉ.

Thanh tra Bộ Nội vụ vừa có thông báo kết luận thanh tra tại tỉnh Bình Dương, phát hiện nhiều vi phạm trong tuyển dụng cán bộ.

Bình Dương tuyển hàng chục cán bộ chưa đủ bằng cấp
Trong 3 năm, Bình Dương tuyển hàng chục cán bộ chưa đủ bằng cấp

Theo đó, Thanh tra Bộ Nội vụ đã thực hiện thanh tra tại tỉnh Bình Dương về thực hiện quy định về quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức; nâng ngạch công chức; bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý; số lượng cấp phó và việc ký hợp đồng lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong cơ quan hành chính nhà nước của UBND tỉnh Bình Dương, giai đoạn từ tháng 1/2017 đến tháng 5/2019.

Qua thanh tra 39 hồ sơ được tuyển dụng, có 11 trường hợp thiếu chứng chỉ quản lý nhà nước, 5 trường hợp thiếu chứng chỉ ngoại ngữ trình độ B, 5 trường hợp bằng đại học chưa đủ 60 tháng (tại thời điểm tuyển dụng).

Ngoài ra, có 25 lãnh đạo được bổ nhiệm khi chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn về ngoại ngữ, tin học, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính; bồi dưỡng về quản lý ngành, lĩnh vực theo quy định của Bộ, ngành chủ quản.

Trong thời gian này, UBND tỉnh Bình Dương đều giao chỉ tiêu biên chế công chức vượt chỉ tiêu được Bộ Nội vụ giao hàng năm (vượt từ 325 đến 543 chỉ tiêu).

Tại kết luận thanh tra, Thanh tra Bộ Nội vụ kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương chỉ đạo thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật về quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức; bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý; số lượng cấp phó.

Kiến nghị UBND tỉnh Bình Dương khẩn trương cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung hồ sơ trong năm 2019 đối với các trường hợp bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, kéo dài thời gian giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trước ngày 28/12/2017 và các trường hợp tuyển dụng đặc biệt còn thiếu điều kiện.

Bên cạnh đó, Thanh tra Bộ Nội vụ đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đã để xảy ra những hạn chế, tồn tại nêu trên để có hình thức xử lý.

  Nguồn : vietnamnet.vn

Cháy nhà trong đêm ở Sài Gòn, 2 phụ nữ và cháu bé tử vong

Lực lượng chức năng TP.HCM đang phong tỏa, khám nghiệm hiện trường vụ hỏa hoạn nghiêm trọng khiến 3 người chết.

Khoảng 1h30 rạng sáng nay, hỏa hoạn bùng phát từ căn nhà ở số 487 Huỳnh Tấn Phát (phường Tân Thuận Đông, quận 7).

Thời điểm xảy ra cháy bên trong có hai phụ nữ và một cháu bé đang ở. Do căn nhà chứa vật liệu dễ cháy, lối thoát hiểm phía trước căn nhà bị tường lửa bao vây khiến 3 người bị mắc kẹt.

Người dân địa phương phát hiện cháy đến ứng cứu nhưng bất lực.

Cháy nhà trong đêm ở Sài Gòn, 2 phụ nữ và cháu bé tử vong
Hiện trường vụ cháy lớn nhà dân trong đêm ở quận 7 khiến 3 người tử vong

Cảnh sát PCCC điều động nhiều phương tiện cùng các cán bộ chiến sĩ đến hiện trường khống chế hỏa hoạn sau đó.

Thi thể ba nạn nhân được phát hiện ở khu vực căn phòng 16m2 ở tầng trệt.

Lực lượng chức năng đã đưa thi thể các nạn nhân ra ngoài về nhà xác để phục vụ công tác điều tra.

Nguyên nhân vụ hỏa hoạn đang được làm rõ.

Nguồn : vietnamnet.vn

Vũ ‘nhôm’ và 2 cựu Chủ tịch Đà Nẵng bị đưa ra Hà Nội xét xử

Dự kiến, từ 2-15/1/2020, Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ “nhôm”) cùng 2 cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng và các đồng phạm sẽ bị TAND TP Hà Nội đưa ra xét xử.

HĐXX gồm 5 người, do thẩm phán Lưu Ngọc Cảnh ngồi ghế chủ tọa.

Vũ ‘nhôm’ và 2 cựu Chủ tịch Đà Nẵng bị đưa ra Hà Nội xét xử

Trước đó, VKSND Tối cao ban hành cáo trạng truy tố Trần Văn Minh (cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng giai đoạn 2006 – 2011), Văn Hữu Chiến (cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng giai đoạn 2011 – 2014) cùng các đồng phạm trong vụ án bán đất công sản cho Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ “nhôm”, cựu Chủ tịch công ty CP Xây dựng Bắc Nam 79) xảy ra tại Đà Nẵng.

Các bị cáo trong vụ án là người giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt của UBND TP Đà Nẵng, bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai”.

Theo cáo buộc, vì những động cơ khác nhau, ông Minh và các đồng phạm đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng, cố ý làm trái các quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, các quy định về quản lý đất đai trong thời gian dài từ năm 2006 đến năm 2014, giúp Vũ “nhôm” thu lợi bất chính đặc biệt lớn, thông qua việc nhận nhiều đất dự án, mua nhà thuộc sở hữu nhà nước, tạo dư luận bức xúc, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho ngân sách nhà nước.

Ông Minh và đồng phạm còn tạo điều kiện cho Vũ “nhôm” trực tiếp được nhận chuyển giao tài sản, quyền quản lý, khai thác đối với 15/22 nhà, đất công sản và 6/7 dự án đất, trên cơ sở tạo cơ hội cho Vũ “nhôm” có quyền quyết định việc chuyển nhượng, khai thác, sử dụng… nhằm trục lợi.

Số tiền Nhà nước bị thiệt hại tại 22 nhà đất công sản được xác định là trên 2.400 tỷ đồng; tại 7 dự án là trên 19.600 tỷ đồng. Tổng tiền thiệt hại là hơn 22.000 tỷ đồng.

Các bị cáo bị đưa ra xét xử các tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” gồm:

Trần Văn Minh (SN 1955, cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, giai đoạn từ năm 2006-2011), Văn Hữu Chiến (SN 1954, cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, giai đoạn từ năm 2011-2014), Phan Văn Anh Vũ (SN 1975, cựu Chủ tịch HĐQT công ty CP Xây dựng 79, công ty CP Bắc Nam 79, công ty trách nhiệm hữu hạn I.V.C, công ty CP đầu tư Nhất Gia Phúc), Nguyễn Ngọc Tuấn (cựu Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng), Phan Xuân Ít (cựu Phó Chánh Văn phòng UBND TP Đà Nẵng), Nguyễn Điểu (cựu Giám đốc Sở TN&MT Đà Nẵng), Trần Văn Toán (cựu Phó Giám đốc Sở TN&MT Đà Nẵng), Lê Cảnh Dương (cựu Giám đốc Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư TP Đà Nẵng), Nguyễn Thanh Sang (cựu Phó Giám đốc Sở Tài chính Đà Nẵng), Nguyễn Thị Thu Hà (cựu Phó Giám đốc Sở Tài chính Đà Nẵng), Nguyễn Văn Cán (cựu Chánh Văn phòng UBND TP Đà Nẵng), Đào Tấn Bằng (cựu Phó Chánh Văn phòng UBND TP Đà Nẵng), Nguyễn Viết Vĩnh (cựu Trưởng phòng Quản lý đô thị thuộc Văn phòng UBND TP Đà Nẵng; Giám đốc Cảng vụ đường thủy nội địa, Sở GTVT Đà Nẵng), Nguyễn Đình Thống (cựu Giám đốc Công ty Quản lý và khai thác đất Đà Nẵng), Nguyễn Công Lang (cựu Giám đốc công ty Quản lý nhà Đà Nẵng), Trần Phi (cựu TGĐ công ty CP xuất nhập khẩu Đà Nẵng), Phan Ngọc Thạch (cựu Giám đốc công ty CP du lịch Đà Nẵng), Huỳnh Tấn Lộc (cựu Giám đốc công ty CP công nghệ phẩm Đà Nẵng), Lê Anh Tuấn (cựu Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng), Nguyễn Quang Thành (cựu Giám đốc công ty TNHH Minh Hưng Phát), Phan Minh Cương (cựu Giám đốc công ty TNHH I.V.C, TGĐ công ty CP Xây dựng 79).

Nguồn : Vietnamnet.vn

Thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động có được hưởng trợ cấp thôi việc?

Luật sư tư vấn về trường hợp thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động thì có phải bồi thường không, có được hưởng trợ cấp thôi việc và trợ cấp thất nghiệp hay không?

Câu hỏi:

Thân gửi Luật sư. Em có kí hợp đồng lao động 12 tháng và em đã làm được khoảng 7 tháng. Vào ngày 1/3/2019 em có gửi mail xin phép công ty cho em nghỉ 2 tuần và đã được công ty chấp nhận, sau đó do em phải về quê phụ gia đình kinh doanh nên em đã xin thôi việc vào ngày 31/3/2019, thời điểm em viết đơn xin nghỉ là ngày 7/3/2019. Vừa rồi công ty đã chấp nhận cho em thôi việc vào ngày 15/3/2019, thời điểm làm thủ tục thôi việc là vào ngày 12/3/2019. Vậy luật sư cho em hỏi là có phải em đã vi phạm hợp đồng lao động không? Và phải bồi thường cho công ty không ạ? Và em có được hưởng chế độ thất nghiệp không? Do em không tìm hiểu trước các quy định về luật lao động nên không biết là phải báo trước 30 ngày ạ. Mong luật sư tư vấn giúp em với ạ. Em xin chân thành cảm ơn Luật sư!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành . Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012;

– Luật Việc làm số 38/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 16/11/2013.

  1. Luật sư tư vấn

TRƯỜNG HỢP 1: Nội dung của quyết định thể hiện đồng ý cho nghỉ việc theo thỏa thuận giữa các bên.

Thứ nhất, về bồi thường thiệt hại:

Theo thông tin bạn cung cấp, thời điểm bạn viết đơn xin nghỉ là ngày 7/3/2019 và công ty đã chấp nhận cho bạn thôi việc vào ngày 15/3/2019. Như vậy đây là trường hợp thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Khoản 3 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2012. Như vậy, bạn không phải bồi thường cho công ty khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Thứ hai, về trợ cấp thôi việc.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật lao động năm 2012 quy định:

“Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.”

Bạn ký hợp đồng lao động 12 tháng, thời gian thực tế đã làm việc là 7 tháng, do vậy bạn không đủ điều kiện để được hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định trên.

Thứ ba, về trợ cấp thất nghiệp.

Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định tại Khoản 2 Điều 49 Luật việc làm năm 2013 như sau:

“Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;”

Hợp đồng lao động của bạn là hợp đồng lao động có xác định thời hạn, cụ thể là thời hạn 1 năm, vì vậy bạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên thì sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên bạn mới làm việc được 7 tháng, do đó bạn không đủ điều kiện để được hưởng trợ cấp thất việc theo quy định trên.

TRƯỜNG HỢP 2: Nội dung của quyết định thể hiện cho thôi việc và kèm theo yêu cầu chấm dứt hợp đồng do bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.

Thứ nhất, về bồi thường khi vi phạm thời gian báo trước.

Theo quy định của pháp luật, đối với hợp đồng lao động có xác định thời hạn thì khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải báo trước cho người sử dụng biết trước ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn.

Thời điểm bạn xin thôi việc là ngày 7/3/2019 và nghỉ việc luôn ngày hôm đó như vậy bạn đã vi phạm quy định báo trước cho công ty 30 ngày.

Khi đó, bạn phải bồi thường cho công ty 1 khoản tiền tương ứng với tiền lương của bạn trong nhưng ngày bạn không báo trước, cụ thể trong trường hợp này là 30 ngày.

Thứ hai, về trợ cấp thôi việc.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 Bộ luật lao động năm 2012 thì người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật sẽ không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

Thứ ba, về trợ cấp thất nghiệp.

Do bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nên bạn không đủ điều kiện để hưởng trợ cấp thất nghiệp do BHXH chi trả.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng