Tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, tùy theo tính chất, nội dung vụ án mà thời gian để tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ có thể bị kéo dài; đồng thời để việc giải quyết vụ án hành chính được toàn diện, đúng pháp luật cần triệu tập được đầy đủ những người có liên quan đến vụ án. Do đó, trong một số trường hợp Tòa án có thể ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính chỉ mang tính chất tạm thời, khi căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính không còn, Tòa án sẽ tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
  • Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.
  • Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự.
  • Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan.
  • Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án.
  • Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.

Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Theo quy định tại Điều 145 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trong thời gian chuẩn bị xét xử, thẩm phán được hân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án phải gửi quyết định cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Tại phiên tòa, trường hợp có căn cứ quy định tại Điều 141 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ vụ án:

Theo quy định tại Điều 142 Luật tố tụng hành chính năm 2015, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không dẫn tới việc xóa tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đó để theo dõi. Trường hợp căn cứ tạm đình chỉ không còn thì Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đối với tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.

Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính là việc tòa án ngừng việc giải quyết vụ án khi có căn cứ do pháp luật quy định.

Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án hành chính:

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:

  1. Người khởi kiện là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
  2. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút;
  3. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút đơn yêu cầu độc lập;
  4. Người khởi kiện không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ;

  1. Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
  2. Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu;
  3. Thời hiệu khởi kiện đã hết;
  4. Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật này mà Tòa án đã thụ lý. Cụ thể như sau:

– Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;

– Người khởi kiện không có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ;

– Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;

– Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;

– Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

– Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này;

– Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật này;

– Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.

Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án:

Theo quy định tại Điều 144 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:

– Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện này không có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp bị đình chỉ theo quy định tại các điểm b, c và e khoản 1 Điều 123, điểm b và điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật này và trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

– Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đối với quyết định đình chỉ giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay. Đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.

Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án:

Theo quy định tại Điều 145, Điều 165,  Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, nếu có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật này thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Trường hợp đương sự xuất trình quyết định hành chính mới mà quyết định hành chính đó liên quan đến quyết định bị khởi kiện và không thuộc thẩm quyền của Tòa án đang xét xử sơ thẩm vụ án thì Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Thanh Hiếu
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hiệu lực của Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, luật sư tư vấn giúp tôi, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực khi nào? Thời hạn kháng cáo Quyết định này là bao nhiêu ngày?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

  1. Nội dung tư vấn:

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 273 và Khoản 2 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định như sau:

Điều 273. Thời hạn kháng cáo

  1. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này.

Điều 280. Thời hạn kháng nghị

  1. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.”

Như vậy, thời hạn kháng cáo quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là 07 ngày kể từ ngày đương sự nhận được Quyết định.

Sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định nêu trên mà Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án không bị kháng cáo, kháng nghị thì Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

Câu hỏi:

Xin chào Luật sư, luật sư tư vấn giúp tôi về các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định pháp luật hiện hành.

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia tư vấn và nghiên cứu như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

  1. Nội dung tư vấn:

Căn cứ quy định tại Khoản 1, 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự bao gồm:

“Điều 217. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

  1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;
  3. b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
  4. c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
  5. d) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;

đ) Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

  1. e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết;
  2. g) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý;
  3. h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
  4. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, không đề nghị xét xử vắng mặt và trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì giải quyết như sau:
  5. a) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án;…”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Phạm Thị Ngọc Ánh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động các cơ sở kinh doanh không đảm bảo an toàn về phòng cháy và chữa cháy.

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động các cơ sở kinh doanh không đảm bảo an toàn về phòng cháy và chữa cháy

Chào quý công ty. Tôi xin đề nghị quý công ty giúp tôi vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính cụ thể như sau: Chủ tịch UBND cấp xã ban hành quyết định đình chỉ đối với cơ sở kinh doanh karaoke do khi kiểm tra phát hiện một số điều kiện và phương tiện phòng cháy chữa cháy chưa đảm bảo quy định, hoặc còn thiếu theo quy định có đúng không.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Nghị định 79/2014/NĐ-CP Nghị định của Chính Phủ quy dịnh chi tiết một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy; ngày 31 tháng 07 năm 2014.

Thông tư 66/2014/TT-BCA Thông tư Bộ công an hướng dẫn Nghị định 79/2014/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2014

  1. Luật sư tư vấn:

Theo quy định Nghị định 79/2014/NĐ-CP, tại Khoản 1 Điều 19 các trường hợp bị tạm đình chỉ do không đảm bảo an toàn về phòng cháy và chữa cháy gồm:

  1. a) Trong môi trường nguy hiểm cháy, nổ xuất hiện nguồn lửa, nguồn nhiệt hoặc khi đang có nguồn lửa, nguồn nhiệt mà xuất hiện môi trường nguy hiểm cháy, nổ (sau đây gọi là nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ).
  2. b) Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy nếu không được ngăn chặn kịp thời thì có thể dẫn đến nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ và có thể gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
  3. c) Vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy đã được cơ quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy yêu cầu khắc phục mà không khắc phục hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về phòng cháy và chữa cháy mà tiếp tục vi phạm.

Thời hạn tạm đình chỉ hoạt động theo quy định tại Khoản 3 Điều 19 Nghị định 79/2014/NĐ-CP được xác định căn cứ vào điều kiện, khả năng loại trừ nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ, khả năng khắc phục vi phạm về phòng cháy và chữa cháy nhưng không vượt quá 30 ngày.

Khi đã hết thời hạn tạm đình chỉ mà không khắc phục hoặc không thể khắc phục được và có nguy cơ cháy, nổ gây hậu quả nghiêm trọng thì bị đình chỉ hoạt động.

Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động được quy định tại Khoản 6 Điều 19 Nghị đinh 79/2014/NĐ-CP, theo đó:

  1. a) Bộ trưởng Bộ Công an hoặc người được ủy quyền được quyền quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động của bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân trong phạm vi cả nước.
  2. b) Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp được quyền quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động của bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của mình.
  3. c) Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Thủ trưởng cơ quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy ở địa phương trong phạm vi thẩm quyền của mình được quyền quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động đối với từng bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân.
  4. d) Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy được tạm đình chỉ hoạt động đối với trường hợp quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này và trong thời gian ngắn nhất sau khi tạm đình chỉ phải báo cáo người trực tiếp quản lý có thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ.

Theo Thông tư 66/2014/TT-BCA, thủ tục tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở không đảm bảo điều kiện về phòng cháy và chữa cháy được quy định tại Điều 11, cụ thể như sau:

  1. Thủ tục tạm đình chỉ hoạt động
  2. a) Khi phát hiện trường hợp bị tạm đình chỉ hoạt động theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP thì người có thẩm quyền tạm đình chỉ hoạt động theo quy định tại Khoản 6 Điều 19 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP có quyền yêu câu tổ chức, cá nhân ngừng hoạt động hoặc chấm dứt hành vi vi phạm và thực hiện theo các quy định sau đây:

– Lập biên bản xác định phạm vi nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ hoặc hành vi vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy;

– Ra quyết định hoặc báo cáo người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động.

  1. b) Việc ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động phải bằng văn bản (mẫu số PC07). Trường hợp cấp thiết có thể ra quyết định, tạm đình chỉ bằng lời nói và ngay sau đó phải thể hiện quyết định bằng văn bản. Khi ra quyết định tạm đình chỉ bằng lời nói phải xưng rõ họ tên, chức vụ, đơn vị công tác, phạm vi và những hoạt động bị tạm đình chỉ.

Người ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động có trách nhiệm tổ chức theo dõi việc khắc phục, loại trừ nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ.

  1. Thủ tục đình chỉ hoạt động
  2. a) Khi hết thời hạn tạm đình chỉ hoạt động, người có thẩm quyền đã ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động trước đó có trách nhiệm tổ chức kiểm tra cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và hoạt động của cá nhân bị tạm đình chỉ để xem xét khả năng loại trừ nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ hoặc khắc phục vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy. Việc kiểm tra phải được lập biên bản (mẫu số PC05);
  3. b) Kết thúc kiểm tra, nếu xét thấy nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ chưa được loại trừ hoặc vi phạm không được khắc phục hoặc không thể khắc phục được và có nguy cơ cháy, nổ gây hậu quả nghiêm trọng thì người có thẩm quyền đã ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động trước đó xem xét, ra quyết định đình chỉ hoạt động của cơ sở, hộ gia đình, phương tiện giao thông cơ giới, hoạt động của cá nhân (mẫu số PC08).

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Có thể đình chỉ vụ án Hồ Duy Hải

Như Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh, VKSND Tối cao vừa kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị TAND Tối cao hủy án sơ thẩm của TAND tỉnh Long An và án phúc thẩm của Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã kết tội Hồ Duy Hải tử hình về tội giết người và cướp tài sản để điều tra lại.

Điều đáng nói là vụ án đã xảy ra từ hơn 11 năm trước, các chứng cứ không còn rõ ràng, hiện trường đã thay đổi. Vì thế, các yêu cầu mà kháng nghị đặt ra có thể thực hiện được hay không và nếu quá trình điều tra lại không kết quả thì các khả năng pháp lý nào sẽ xảy ra? Chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của các cựu thẩm phán, kiểm sát viên (KSV) và luật sư.

Ông VŨ PHI LONG, nguyên Phó Chánh Tòa Hình sự TAND TP.HCM:

Rất khó giám định những dấu vết lâu ngày

Kháng nghị của VKSND Tối cao đã chỉ ra những vấn đề liên quan đến tình tiết chứng cứ buộc tội của vụ án chưa được làm rõ. Giả sử kháng nghị này được chấp nhận thì khi điều tra lại, CQĐT có trách nhiệm thu thập những chứng cứ mới và đánh giá lại những chứng cứ đã được thu thập trước đây để làm rõ được những điểm mà kháng nghị nêu.

Mặc dù vụ án đã xảy ra từ 11 năm trước nhưng toàn bộ hồ sơ vụ án còn đó, các chứng cứ buộc tội, gỡ tội còn đó, đặc biệt là bị án Hải còn đó… Tất cả vấn đề mà kháng nghị nêu ra CQĐT cần phải làm rõ. Có làm rõ được các yếu tố cấu thành thì mới đủ cơ sở để chứng minh tội phạm. Trong trường hợp không chứng minh được hành vi phạm tội thì CQĐT cần áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội theo Điều 13 BLHS 2015.

Theo Điều 388 BLTTHS 2015 thì hội đồng giám đốc thẩm có các thẩm quyền: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; hủy bản án đã có hiệu lực và giữ nguyên bản án đúng pháp luật của tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật. Hội đồng này cũng có quyền hủy bản án đã có hiệu lực để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án đã có hiệu lực và đình chỉ vụ án; sửa bản án đã có hiệu lực pháp luật; đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.

Kháng nghị đã nêu rõ: “Theo kết luận giám định, dấu vết vân tay thu giữ tại hiện trường không trùng với dấu vân tay của Hải. Thế nhưng cơ quan tố tụng vẫn dùng để lập luận, kết tội Hải là vi phạm nghiêm trọng”.

Theo tôi, trong một khoảng thời gian dài thì có những chứng cứ, dấu vết đã bị xóa nhòa. Nếu điều tra lại, liệu những dấu vết lâu ngày, nay có còn đủ dữ liệu, điều kiện giám định hay không? Trong khi đó, vết máu có dấu vân tay thu giữ tại hiện trường rất quan trọng. Kết luận giám định sẽ là chứng cứ chứng minh tội phạm hoặc được dùng làm chứng cứ chứng minh gỡ tội cho người bị tình nghi.

Theo Điều 392 BLTTHS thì trường hợp có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 BLTTHS như không có sự việc phạm tội đối với Hải hoặc hành vi của Hải không cấu thành tội phạm… thì hội đồng giám đốc thẩm sẽ hủy bản án đã có hiệu lực và đình chỉ vụ án.

Có thể đình chỉ vụ án Hồ Duy Hải - ảnh 1
Hồ Duy Hải (ảnh nhỏ) và Bưu điện Cầu Voi chiều 2-12. Ảnh: PL

Ông TRỊNH MINH TÂN, nguyên Trưởng phòng Kiểm sát xét xử, VKSND TP.HCM:

Theo kháng nghị của VKSND Tối cao thì ngay khi án mạng xảy ra, việc điều tra để chứng minh tội phạm đã có quá nhiều sai sót.

Về nguyên tắc, khi vụ án xảy ra, CQĐT và VKS phải có mặt tại hiện trường nơi xảy ra vụ án thu thập toàn bộ dấu vết, vật chứng vụ án. Đối với vụ án này, phải thu giữ mẫu máu ở cái thớt, ghế, dao… để xác định máu của nạn nhân, máu của hung thủ (nếu có). Sau đó phải niêm phong các vật chứng này và có chữ ký của điều tra viên, KSV, người làm chứng.

Đồng thời người tiến hành tố tụng phải lấy ngay lời khai của người phát hiện vụ việc, người làm chứng khác, chụp toàn bộ hình ảnh hiện trường vụ án, vị trí các nạn nhân, vị trí các dụng cụ gây án, các dấu vết tại hiện trường….

Đây là án truy xét, không phải bị bắt quả tang nên khi xác định được người nghi là hung thủ cần làm rõ trước khi vụ án xảy ra thì nghi can đó làm gì, ở đâu. Tức là phải xác định được việc tiêu thụ thời gian của Hải ở trước, trong và sau khi án mạng xảy ra.

Khi đã có lời khai thì phải tiến hành xác minh, ghi lời khai của những người ở nơi Hải khai ra như người ở tiệm cầm đồ, người này, người khác xem có phù hợp với thời gian vụ án xảy ra hay không. CQĐT phải xác định việc Hải bán tài sản cướp được cho ai, ở đâu, đồng thời chỉ điểm những nơi đó.

CQĐT cũng phải làm rõ lý do gì có những mâu thuẫn về thời gian Hải khai trước đó với thời gian vụ án xảy ra, lý do mâu thuẫn Hải khai kéo nạn nhân này để đầu lên bụng nạn nhân kia để cắt cổ nhưng hiện trường thể hiện không như vậy. Phải giải đáp được lý do gì sau hai tháng mới thu chiếc thớt, ghế nhựa tại hiện trường mà mã số ghế không phải là ghế dính máu khi vụ án xảy ra… Tất cả mâu thuẫn đó điều tra viên và KSV phải làm rõ mới đủ căn cứ xác định Hải có phạm tội hay không.

Hiện nay Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sẽ xem xét kháng nghị giám đốc thẩm. Nếu kháng nghị được chấp nhận thì trong 15 ngày, hồ sơ vụ án sẽ được chuyển cho VKS để điều tra lại. Nếu hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án để xét xử lại vụ án ở cấp sơ thẩm (hoặc phúc thẩm) thì trong thời hạn 15 ngày hồ sơ vụ án sẽ được chuyển lại cho tòa án có thẩm quyền.

Tuy nhiên, nếu điều tra lại thì việc thu thập chứng cứ của CQĐT phải gồm các chứng cứ buộc tội lẫn chứng cứ gỡ tội. Các chứng cứ này sẽ phải được các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là VKS đánh giá xem có khách quan, hợp pháp và có tính xác thực không. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện điều này một cách rõ ràng để đảm bảo chỉ còn 1% nghi ngờ thì không thể kết tội nghi can.

Luật sư ĐẶNG ĐỨC TRÍ, Đoàn Luật sư TP.HCM:

Đặc biệt làm rõ vết máu, vân tay

Theo tôi, những yếu tố được xem là chứng cứ mới để giải quyết phải được thu thập, đối chiếu với những tình tiết của vụ án. Nhất là những tình tiết cần phải được làm rõ như vết máu, dấu vân tay của Hải.

Đến thời điểm này, thời gian xảy ra vụ án đã lâu nên những chứng cứ có thể mai một, xóa nhòa. Tuy nhiên, những tài liệu, chứng cứ như vết máu vẫn có thể xác định được, dấu vân tay cơ quan chức năng vẫn có thể truy xét, dò tìm.

Nhiều vụ việc dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng với công nghệ hiện đại vẫn có thể chứng minh được tội phạm nếu đảm bảo được các thuộc tính của chứng cứ. Đồng thời CQĐT phải chịu trách nhiệm đối với kết luận của mình về chứng cứ. Nếu không thể chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo thì phải áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội đối với Hồ Duy Hải.

Báo cáo 10 trang của Ủy ban Tư pháp

Tại cuộc họp của đoàn giám sát của Quốc hội về tình hình oan, sai và bồi thường oan vào tháng 3-2015, bà Lê Thị Nga, hiện là chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, cho biết bà đã dày công nghiên cứu hồ sơ vụ án này.

Bà Nga đã đến tận hiện trường, rồi vào trại giam gặp Hải. Sau đó bà có báo cáo dài 10 trang, nêu rõ các sai phạm và đưa ra những nhận định về vụ án, khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên.

***

Kháng nghị sau 10 năm án có hiệu lực

Ngày 13-1-2008, tại Bưu điện Cầu Voi (huyện Thủ Thừa, Long An) phát hiện hai nữ nhân viên bị giết hại, khám nghiệm hiện trường lấy được nhiều dấu vân tay.Hơn hai tháng sau, Hồ Duy Hải (nhà cách bưu điện 2 km) bị bắt vì bị cho là hung thủ duy nhất gây án. Hung khí mà Hải bị cho đã sử dụng là con dao, cái thớt và cái ghế.

Nhưng tại tòa, thể hiện chiếc ghế thu giữ được sau khi vụ án xảy ra hơn hai tháng là một chiếc ghế có mã số khác với mã số ghi nhận trong biên bản khám nghiệm hiện trường. Còn con dao và thớt là đồ mới do điều tra viên ra chợ mua về làm vật chứng.

Dấu vân tay của Hải không trùng khớp với dấu vân tay tại hiện trường. Xử sơ thẩm và phúc thẩm, Hải kêu oan nhưng đều bị án tử hình. Tháng 12-2014, TAND tỉnh Long An thông báo thi hành bản án tử hình nhưng được tạm dừng đến nay.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực từ năm 2009 và 10 năm sau bị kháng nghị. Theo Điều 379 BLTTHS 2015 thì thời hạn kháng nghị theo hướng bất lợi cho người bị kết án là một năm kể từ ngày án có hiệu lực. Nhưng nếu kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không có thời hạn, ngay cả người bị kết án đã chết mà cần minh oan.

Theo PLO.VN