Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về: Công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế?

Câu hỏi khách hàng:

Thưa Luật sư, tôi có mở quan xoa bóp, bấm huyệt. Ngày 12/04/2019 cơ sở kinh doanh của tôi bị đoàn kiểm tra của công an huyện xuống kiểm tra. Cơ sở của tôi bị lập biên bản vi phạm hành chính về lỗi Không có tủ thuốc cấp cứu theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 32 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP.

Ngày 22/04/2019 tôi nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt là 2.500.000 đồng do bên Công an Huyện gửi về. Tôi muốn hỏi luật sư về việc các anh công an huyện lập biên bản và xử phạt tôi như vậy có đúng hay không? Vì theo tôi việc xử phạt vi phạm hành chính về y tế phải do sở y tế xử phạt chứ không phải do cơ quan công an xử phạt.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012;

– Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Về nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính nói chung, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính có quy định như sau:

“Điều 3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính

  1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
  2. a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
  3. b) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;”

Xét về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, theo quy định tại khoản 1 Điều 94 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, người có thẩm quyền xử phạt sẽ có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính.

Chương 3 Nghị định 176/2013/NĐ-CP có quy định về người có thẩm quyền xử phạt tiền đối với hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế gồm có: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; Thanh tra viên, Chánh Thanh tra Sở Y tế và Chi Cục trưởng Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế, Chánh Thanh tra Bộ và Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, Cục trưởng Cục Quản lý dược, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp bộ; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp sở, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; Kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường, Chi Cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương, Trưởng phòng chống buôn lậu, Trưởng phòng chống hàng giả, Trưởng phòng kiểm soát chất lượng hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường, Chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ; Trưởng công an cấp xã, huyện; Giám đốc công an tỉnh,…

Theo quy định trên, lực lượng công an nhân dân cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, phạm vi xử phạt cụ thể được quy định tại Điều 92 như sau:

“4. Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ có quyền:

  1. a) Phạt cảnh cáo;
  2. b) Phạt tiền đến 6.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính về dân số và đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá;”

Đối chiếu với quy định trên, lực lượng công an nhân dân có thẩm quyền xử phạt vi phạm về hành chính trong lĩnh vự y tế tuy nhiên, chỉ giới hạn ở việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm về: Chính sách dân số và vi phạm hành chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá. Trong khi đó, hành vi vi phạm của anh là vi phạm quy định về điều kiện hành nghề xoa bóp thuộc mục hai – Hành vi vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh. Và theo chương 3, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khám chữa bệnh là của Ủy ban nhân dân các cấp, Thanh tra y tế và Quản lý thị trường.

Do vậy, việc công an không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng lại lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về khám chữa bệnh, thậm chí ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này là không đúng thẩm quyền.

Đối với việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bạn, bạn có thể thực hiện việc khiếu nại theo quy định lên chính thủ trưởng đơn vị của người ban hành ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó. Nếu quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định mà họ không giải quyết hoặc giải quyết không đúng thì bạn có thể làm đơn khiếu nại lên người có thẩm quyền cao hơn để yêu cầu giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Công an cấp xã có thẩm quyền xử phạt vi phạm giao thông không?

Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về vấn đề Quy định về câu hỏi: Công an cấp xã có thẩm quyền xử phạt vi phạm giao thông không?

Câu hỏi khách hàng:

Tôi là Nguyễn Minh Tiến, 24 tuổi. Hôm 24/1/2017 vừa qua tôi điều khiển xe tại quê nhà, khi đang đi thì Công an xã gọi tôi lại và xử phạt tôi về lỗi không đội mũ bảo hiểm. Hơn nữa còn giữ xe của tôi đến nay vẫn chưa trả. Vậy Luật sư cho tôi hỏi, công an xã có thẩm quyền xử phạt và giữ xe của tôi không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Nghị định số: 46/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt;

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo như nội dung bạn đã trình bày, bạn có hành vi vi phạm quy định giao thông đường bộ đó là không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Căn cứ theo Điểm I khoản 3 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ thì:

“3. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

i) Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ;”

Theo Khoản 4 Điều 70 Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định về thẩm quyền của Trưởng công an xã như sau:

“4. Trưởng Công an cấp xã trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có liên quan đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các Điểm, Khoản, Điều của Nghị định này như sau:

  1. a) Điểm đ, Điểm i Khoản 1; Điểm g, Điểm h Khoản 2; Điểm b, Điểm d, Điểm đ, Điểm e, Điểm k Khoản 3; Điểm a, Điểm d, Điểm đ, Điểm i Khoản 4 Điều 5;
  2. b) Điểm e Khoản 2; Điểm a, Điểm đ, Điểm e, Điểm h, Điểm i, Điểm k, Điểm l, Điểm o Khoản 3; Điểm d, Điểm đ, Điểm g, Điểm k Khoản 4; Điểm d, Điểm e Khoản 5 Điều 6;
  3. c) Điểm b, Điểm d, Điểm đ, Điểm e, Điểm g, Điểm h, Điểm i Khoản 2; Điểm b, Điểm d Khoản 3; Điểm đ, Điểm h, Điểm i Khoản 4 Điều 7;
  4. d) Điểm c, Điểm đ, Điểm e, Điểm g Khoản 1; Khoản 2; Khoản 3; Khoản 4; Khoản 5 Điều 8;

đ) Điều 9, Điều 10;

  1. e) Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 11;
  2. g) Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 Điều 12;
  3. h) Khoản 1, Khoản 2 Điều 15;
  4. i) Điều 18; Khoản 1 Điều 20;
  5. k) Điểm b Khoản 3 Điều 23;
  6. l) Khoản 1 Điều 29;
  7. m) Khoản 4 Điều 31; Điều 32; Khoản 1 Điều 34;
  8. n) Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Điểm a Khoản 5, Khoản 6 Điều 46; Khoản 1 Điều 48; Khoản 1 Điều 49; Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 68; Điều 69.

Đối chiếu theo quy định trên thì Trưởng công an xã trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có liên quan đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông.

Bởi vậy, trường hợp này bạn cần xem xét người xử phạt bạn có phải là Trưởng công an xã hay không. Vì trưởng công an xã mới có thẩm quyền xử phạt.

Tuy nhiên đối với hành vi này bạn chỉ bị xử phạt hành chính, không áp dụng hình phạt giữ phương tiện. Cho nên công an xã giữ xe của bạn như vậy là không đúng theo quy định của pháp luật.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Điều kiện kết hôn với chiến sỹ công an ?

Hỏi: Xin chào luật sư! Hiện tại em đang yêu một chiến sĩ an ninh, chúng em muốn tiến đến hôn nhân. Nhưng ba em trước đây bị kết án bức tử và đi tù 1 năm, sau đó cải tạo tốt và đc hưởng khoan hồng của Nhà nước được tại ngoại. Chuyện xảy ra cách đây 16 năm và sau đó ba em không vi phạm gì nữa. Vậy luật sư cho em hỏi em có thể lấy chồng là công an không?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

Luật hôn nhân và gia đình 2014

Bộ Luật Hình sự 1999 (Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017)

  1. Nội dung phân tích

Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân thủ các điều kiện sau đây:

“a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên

  1. b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
  2. c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
  3. d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.”

Ngoài việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện thông thường, việc kết hôn với chiến sĩ công an còn phải đáp ứng các điều kiện tại Quyết định số 1275/2007/QĐ-BCA ngày 26/10/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân. Theo đó, điều kiện để lấy chồng công an là không thuộc các trường hợp sau:

– Gia đình có người làm tay sai cho chế độ phong kiến, Ngụy quân, Ngụy quyền.

– Bố mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành án phạt tù theo quy định của pháp luật

– Gia đình hoặc bản thân theo Đạo Thiên Chúa, Cơ Đốc, Tin Lành.

– Có gia đình hoặc bản thân là người dân tộc Hoa.

– Có bố mẹ hoặc bản thân là người nước ngoài (kể cả đã nhập tịchViệt Nam)

Cùng với đó, Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định về xóa án tích tại các Điều 70,71,72,73 như sau:

Điều 70. Đương nhiên được xóa án tích

  1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
  2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
  3. a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
  4. b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
  5. c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
  6. d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

  1. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.
  2. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này.”

Điều 71. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án

  1. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án.

  1. Người bị kết án được Tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
  2. a) 03 năm trong trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm;
  3. b) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
  4. c) 07 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a khoản này thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

  1. Người bị kết án được Tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.
  2. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm mới được xin xóa án tích.”

Điều 72. Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt

Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”

Điều 73. Cách tính thời hạn để xóa án tích

  1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.
  2. Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.
  3. Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó.
  4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.”

Theo như thông tin mà bạn cung cấp và dựa theo các quy định của Bộ luật hình sự đã nêu ở trên, án phạt tù của bố bạn đã xảy ra cách đây 16 năm, do đó bố bạn đương nhiên được xóa án tích. Người được xóa án tích được coi như chưa bị kết án. Bố bạn không được coi là người có tiền án. Như vậy, vấn đề của bố bạn không ảnh hưởng đến việc bạn lấy chồng công an.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Công an thu giữ thêm 140 viên nén ma túy tổng hợp, 35 gói ma túy đá, hai bịch cỏ Mỹ, 22 dụng cụ hút shisha, cùng nhiều bịch ni-long có đựng chất bột màu trắng nghi là ma túy,…

Ngày 9/12, Công an huyện Long Thành (Đồng Nai) đang tạm giữ hình sự đối với Nguyễn Hồng Ân (39 tuổi, là quản lý quán Vic Beer Club) để phục vụ công tác điều tra về hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý . Ngoài Ân ra, thì có 5 nhân viên của quán gồm Phan Văn Âu (21 tuổi), Tạ Quang Hùng (22 tuổi), Nguyễn Mạnh Tú (21 tuổi), Dương Lê Tính (24 tuổi) và Phan Thị Tuyết Mai (27 tuổi) cũng bị tạm giữ để điều tra về hành vi trên.

An ninh - Hình sự - Cận cảnh quán bar Vic Beer Club nơi có quản lý và 5 nhân viên bị bắt vì bán ma túy cho khách

Cơ quan công an đột kích bắt nhóm đối tượng sử dụng ma túy trong quán bar.

Theo đó, vào rạng sáng ngày 8/12, Công an tỉnh Đồng Nai phối hợp với Công an huyện Long Thành tiến hành kiểm tra quán bar Vic Beer Club, ở tổ 33, khu Cầu Xéo, thị trấn Long Thành. Thời điểm kiểm tra, công an phát hiện 113 người đang bay lắc trong tiếng nhạc mạnh và có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tại hiện trường, công an thu giữ nhiều viên nén, chất bột màu trắng nghi là ma túy tổng hợp nằm trên bàn và dưới nền nhà của quán vương vãi nhiều viên nén, chất bột màu trắng.

Ngoài ra, công an còn thu giữ thêm 140 viên nén ma túy tổng hợp, 35 gói ma túy đá, hai bịch cỏ Mỹ, 22 dụng cụ hút shisha, cùng nhiều bịch ni-lông có đựng chất bột màu trắng nghi là ma túy ở khu pha chế, quầy thu ngân và khu vực nhà vệ sinh, lực lượng chức năng thu giữ. Qua test nhanh, 29 đối tượng dương tính với chất ma túy, trong đó năm nhân viên và 24 khách.

Làm việc với Công an, Nguyễn Hồng Ân thừa nhận, số ma túy trên được mua về bán lại cho khách đến chơi để kiếm lời. Còn Âu, Hùng, Tú, Tính và Mai khai nhận có liên quan đến việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy.

Nguồn : nguoiduatin.vn

Gần 90 người dương tính ma túy trong khách sạn 5 sao

ĐỒNG NAI – Đại tá Vũ Hồng Văn, Giám đốc Công an Đồng Nai dẫn lực lượng ập vào quán bar ở Biên Hòa, phát hiện gần 90 nam nữ dương tính ma túy.

Nhiều thanh niên nam nữ được đưa về trụ sở công an làm việc. Ảnh: Thái Hà

Nhiều thanh niên nam nữ được đưa về trụ sở công an làm việc.

Quán bar COSMO nằm ở tầng bốn của khách sạn Central Park với hàng trăm dân chơi đang nhún nhảy trong tiếng nhạc chát chúa, rạng sáng 8/12. Đại tá Vũ Hồng Văn chỉ huy nhiều nhóm trinh sát hình sự, cơ động… đột kích vào bên trong, phong tỏa các lối thoát.

Nhiều người vội vứt ma túy tháo chạy song đều bị khống chế. Cảnh sát thu giữ 18 viên ma túy, sáu gói chất bột màu trắng nghi ma túy tổng hợp cùng nhiều tang vật liên quan khác.

Trong 190 dân chơi và nhân viên quán bị đưa về trụ sở công an có 88 người (18-30 tuổi) dương tính với ma túy, trong đó có 21 nữ.

Theo cơ quan công an, quán bar này chính là địa điểm của quán bar Ozone từng bị Công an TP Biên Hòa kiểm tra, phát hiện 150 người sử dụng ma túy hôm 22/9. Sau đó quán bar đã đổi tên và tiếp tục hoạt động gần tháng nay.

  Nguồn : vnexpress

Băng nhóm thanh, thiếu niên táo tợn gây ra liền 4 vụ cướp trong 1 đêm

(NLĐO)- Chỉ trong một đêm, một ổ nhóm thanh, thiếu niên mang theo dao, kiếm thực hiện liền 4 vụ cướp tài sản với hành vi rất manh động, táo tợn. Khi phát hiện “con mồi” chúng liền áp sát, sử dụng dao, kiếm uy hiếp để cướp tài sản.

Ngày 5-12, Đại tá Nguyễn Thanh Tùng, Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội, đã trực tiếp kiểm tra, động viên và quyết định thưởng “nóng” Ban Chuyên án gồm: Phòng Cảnh sát hình sự, Công an quận Long Biên, Công an huyện Gia Lâm với thành tích điều tra, truy bắt nhanh ổ nhóm 5 đối tượng dùng dao kiếm gây ra 4 vụ cướp trong đêm 29-11 vừa qua.

Băng nhóm thanh, thiếu niên táo tợn gây ra liền 4 vụ cướp trong 1 đêm - Ảnh 1.

Các đối tượng bị lực lượng Cảnh sát hình sự bắt giữ

Trước đó, qua công tác nắm tình hình, Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP Hà Nội phát hiện 1 nhóm đối tượng sử dụng xe máy, mang theo hung khí như dao, kiếm phóng lợn lợi dụng những tuyến đường vắng, khu vực giáp ranh quận Long Biên và huyện Gia Lâm (TP Hà Nội) để cướp tài sản. Khi phát hiện “con mồi”, các đối tượng đã áp sát, sử dụng dao, kiếm để uy hiếp, buộc bị hại phải đưa tài sản cho chúng.

Những hình ảnh vi phạm của các đối tượng được hệ thống camera ghi lại, gây bức xúc, lo ngại cho người dân.

Trước tình hình trên, Công an TP Hà Nội trực tiếp chỉ đạo Phòng Cảnh sát hình sự nhanh chóng phối hợp với Công an quận Long Biên, Công an huyện Gia Lâm… tập trung các biện pháp nghiệp vụ điều tra, xác minh và truy bắt những đối tượng gây án.

Băng nhóm thanh, thiếu niên táo tợn gây ra liền 4 vụ cướp trong 1 đêm - Ảnh 2.

Các đối tượng sử dụng xe máy đã được tháo rời biển kiểm soát để đi cướp nhằm tránh bị lực lượng Công an phát hiện

Chỉ sau 3 ngày triển khai lực lượng, Đội Chống cướp giật của Phòng Cảnh sát hình phối hợp với Công an quận Long Biên và Công an huyện Gia Lâm đã bắt giữ 5 đối tượng trong ổ nhóm tội phạm gồm: Hà Việt Khánh (sinh năm 2001) và Dương Bảo A. (sinh năm 2002, cùng ở phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội); Trần Hoài N. (sinh năm 2003, ở phường Nhân Chính, quận Hoàng Mai, Hà Nội); Trần Nhật A. (sinh năm 2003, ở phường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, Hà Nội); Đỗ Quốc D. (sinh năm 2002, ở phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). 2 trong số 5 đối tượng này có tiền án về tội cướp tài sản, cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng.

Một chiếc điện thoại iPhone XS của bị hại cùng 2 xe máy các đối tượng dùng để đi cướp tài sản cũng bị lực lượng Cảnh sát hình sự thu giữ.

Qua đấu tranh khai thác, bước đầu các đối tượng đã khai nhận gây ra 4 vụ cướp tài sản trên địa bàn TP Hà Nội. Theo đó, rạng sáng ngày 29-11, các đối tượng chở nhau trên nhiều xe máy và cầm theo tuýp sắt có hàn dao phóng ở đầu đi trên đường đê thuộc địa phận huyện Gia Lâm với mục đích cướp tài sản. Tại đây, các đối tượng phát hiện chị Nguyễn Th.L. (ở Hà Nội), điều khiển xe máy đang đi một mình xuống dốc Đa Tốn nên đã đuổi theo để cướp. Áp sát được xe của chị L., các đối tượng dùng dao đe dọa, yêu cầu chị L. bỏ hết tài sản. Quá sợ hãi, chị L. đã buộc phải đưa cho các đối tượng 1 chiếc điện thoại iPhone 6S.

Băng nhóm thanh, thiếu niên táo tợn gây ra liền 4 vụ cướp trong 1 đêm - Ảnh 3.

Một số điện thoại tang vật vụ án đã được Phòng Cảnh sát hình sự thu giữ

Ngay sau đó, các đối tượng tiếp tục sử dụng 3 xe máy đi vào trong ngõ 720 đường Nguyễn Văn Cừ hướng về cầu Chui, Long Biên để cướp tài sản. Tại đây, nhóm đối tượng trên phát hiện anh Đỗ M.H. (ở Hà Nội) đang đi xe máy điện theo chiều ngược lại liền quay đầu đuổi theo chặn đánh cướp tài sản. Đối tượng Khánh nhảy xuống dùng tuýp sắt hàn dao phóng lợn chém vào đầu xe của anh H. nhưng may mắn anh Hiếu đã tránh được và phóng xe bỏ chạy. Các đối tượng đuổi theo đến trước cửa 1 chung cư gần đó thì chặn được xe của anh H.. Đối tượng D. xuống xe dùng vũ lực đe dọa và lục soát lấy đi của anh H.: 01 điện thoại iPhone 6S cùng 200.000 đồng rồi cả nhóm tẩu thoát.

Khi đến đê sông Đuống cách cầu Đuống khoảng 300 mét, ổ nhóm đối tượng này tiếp tục phát hiện thấy anh Nguyễn V.N. (ở Hà Nội) đang điều khiển xe máy đi ngược chiều đường. Các đối tượng cũng sử dụng dao kiếm chặn đầu xe của anh N. và chiếm đoạt 1 chiếc điện thoại, ví tiền.

Đến khoảng hơn 3 giờ sáng cùng ngày 29-11, vẫn thủ đoạn sử dụng xe máy áp sát và dùng hung khí nguy hiểm để để đe dọa, các đối tượng đã buộc anh Đinh Q.A. (ở Hà Nội) phải đưa 1 điện thoại iPhone XS. Sau khi cướp được tài sản, các đối tượng phóng xe tẩu thoát. Đến khoảng 4 giờ sáng, các đối tượng chạy về khu vực ga Trần Quý Cáp để L. và N. vào bán số điện thoại cướp được lấy tiền chia nhau.

Mở rộng điều tra, cũng với phương thức thủ đoạn như trên, các đối tượng còn khai nhận gây ra 2 vụ cướp tài sản khác vào rạng sáng ngày 29-11 trên địa bàn quận Long Biên và huyện Gia Lâm. Những vụ án này đang được Phòng Cảnh sát hình sự xác minh tìm bị hại, đồng thời mở rộng điều tra, xử lý nghiêm các đối tượng trước pháp luật.

Đại tá Nguyễn Thanh Tùng đã chỉ đạo Phòng Cảnh sát hình sự cùng với Công an các quận Long Biên, huyện Gia Lâm và lực lượng Cảnh sát hình sự toàn TP Hà Nội tiếp tục mở rộng điều tra vụ án và sớm đưa các đối tượng ra xét xử trước pháp luật nhằm răn đe, phòng ngừa, không để xảy ra vi phạm tương tự trên địa bàn, đảm bảo tuyệt đối bình yên cho nhân dân Thủ đô.

Nguồn : nld.com.vn

Vụ anh trai giết cả nhà em ruột: Kiểm điểm nhiều cán bộ Công an Đan Phượng

Theo Trung tướng Đoàn Duy Khương, vụ ở anh trai sát hại cả nhà em ruột ở huyện Đan Phượng là vụ điển hình về phòng ngừa xã hội rất yếu kém, trong đó có trách nhiệm của lực lượng của công an, nhất là công an cơ sở.