Nhận tiền chạy việc không trả có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Luật Hiệp Thành tư vấn quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Tóm tắt câu hỏi:

Chào Luật sư cho em xin phép hỏi! Năm 2015 em học ra trường và nhờ người chạy việc cho đi dạy, trên giấy tờ chỉ là giấy vay nợ nhưng đến nay họ không xin đươc việc cho em và vẫn không có ý định trả lại tiền. Hiện tại họ đang trốn. Em muốn tư vấn về việc làm đơn tố cáo ạ. Em xin cảm ơn!

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Luật sư tư vấn:

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Luật Hiệp Thành. Với thắc mắc của bạn, Chúng tôi xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

Bộ luật dân sự Luật số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

Bộ luật hình sự Luật số 100/2015/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.

– Luật tố cáo Luật số 03/2011/QH13 được Quốc hội khoá 13 thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011.

  1. Giải quyết vấn đề

Bạn đưa tiền cho người khác nhờ chạy việc nhưng trên giấy tờ ghi là giấy vay nợ. Nay người chạy việc không xin được việc cho bạn, không có ý định trả tiền và đang có hành vi bỏ trốn.

Thứ nhất, việc bạn đưa tiền cho người chạy việc dưới hình thức giấy vay nợ, theo quy định tại Điều 116 Bộ luật dân sự 2015 thì đây là một giao dịch dân sự:

“Điều 116. Giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Nếu xử lý theo trường hợp là vay nợ, tức là hợp đồng vay tài sản thì theo quy định của pháp luật dân sự, khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản đầy đủ số tiền gốc và lãi ( nếu có thỏa thuận). Nếu bên vay không trả, bên cho vay có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.

Nếu trường hợp xác định đây là giấy nhận tiền chạy việc, chạy việc là hành vi không được pháp luật cho phép. Theo đó, đây là giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Do đó, đây được coi là giao dịch dân sự vô hiệu ( Điều 123 Bộ luật dân sự 2015). Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tức là, bên nhận tiền chạy việc phải hoàn trả đầy đủ số tiền đã nhận của bạn.

Thứ hai, về việc làm đơn tố cáo

Với hành vi nhận tiền chạy việc, không có ý định trả tiền và bỏ trốn, người này có thể phải chịu trách nhiệm hình sự một trong hai tội: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác (Điều 174, Điều 175 Bộ luật hình sự 2015).

– Trường hợp 1: Người chạy việc ngay từ đầu biết rằng mình có khả năng chạy việc và thực hiện hành vi để chạy việc như làm thủ tục, hồ sơ, lợi dụng các mối quan hệ, đưa tiền chạy việc và không xin được việc  nhưng không trả lại tiền cho gia đình bạn thì cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

– Trường hợp 2: Người này biết rõ là mình không có khả năng chạy việc nhưng vẫn đề nghị gia đình bạn đưa tiền chạy việc thì đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

 

Tuy nhiên, nếu người chạy việc cho bạn là người có chức vụ, quyền hạn và bằng chức vụ quyền hạn của mình để lo công việc cho bạn, thì đây có thể coi là hành vi nhận hối lộ.

Căn cứ theo Điều 354 Bộ luật hình sự 2015 về tội nhận hối lộ được quy định như sau:

“Điều 354. Tội nhận hối lộ

  1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
  2. a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  3. b) Lợi ích phi vật chất.
  4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
  5. a) Có tổ chức;
  6. b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;
  7. c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  8. d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên;

  1. e) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
  2. g) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt.
  3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
  4. a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
  5. b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
  6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
  7. a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
  8. b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
  9. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
  10. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.”

Ngoài ra, bạn là người đưa tiền cho người có chức vụ quyền hạn để người này thực hiện hành vi chạy việc, bạn cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đưa hối lộ theo quy định tại Điều 364 Bộ luật hình sự 2015. Để lấy lại tiền, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan công an nơi người này đang cư trú.

Đơn tố cáo bạn cần trình bày đầy đủ nội dung theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật tố cáo 2011 bao gồm:

+ Ngày, tháng, năm tố cáo;

+ Họ, tên, địa chỉ của người tố cáo;

+ Nội dung tố cáo

Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Nữ cán bộ giúp 2 phụ nữ lừa chạy việc ngành y

Không có chức năng tuyển dụng nhưng cả ba phụ nữ đã tung tin chạy được việc vào làm ở ngành y rồi chiếm đoạt tiền.
Ngày 2-12, TAND tỉnh Nghệ An tiếp tục xử sơ thẩm, tuyên phạt Ngô Thị Oanh 10 năm tù, Nguyễn Thị Hằng ba năm tù, Nguyễn Thị Thúy 15 tháng tù treo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Nữ cán bộ giúp 2 phụ nữ lừa chạy việc ngành y - ảnh 1
Ba bị cáo Oanh, Hằng, Thúy tại phiên tòa sơ thẩm. 

Theo hồ sơ, từ năm 2014, lúc đó Hằng đang là cán bộ khuyến nông thuộc Trạm khuyến nông TP Vinh (Nghệ An) đã cùng Oanh (50 tuổi, trú xã Hưng Đông, TP Vinh) và Thúy (44 tuổi, trú xã Hưng Lộc, TP Vinh) tung tin “chạy” được việc làm.

Để tạo sự tin tưởng cho các bị hại, khi tiếp cận người dân, Oanh nói rằng bản thân có quen biết lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Nghệ An và hứa xin được cho người lao động có nhu cầu vào làm việc tại các bệnh viện, trung tâm truyền máu, huyết học trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Trong đó, Oanh và Hằng đã bàn bạc, thống nhất với nhau Oanh sẽ chịu trách nhiệm tìm người lao động, nhận hồ sơ, tiền của người xin việc, còn Hằng có nhiệm vụ liên hệ, xin việc làm. Oanh còn bàn bạc với Thúy tìm người lao động để Oanh xin việc làm cho họ, Thúy đồng ý thực hiện.

Bằng các thủ đoạn trên, từ năm 2014 đến 2018, Oanh đã thực hiện 10 vụ lừa đảo với số tiền hơn 2,7 tỉ đồng. Trong đó, Hằng tham gia thực hiện sáu vụ lừa đảo, số tiền chiếm đoạt 420 triệu đồng, Thúy thực hiện một vụ lừa đảo, số tiền chiếm đoạt 210 triệu đồng.

Sau khi bị công ăn bắt, truy tố, Oanh đã trả lại cho các bị hại số tiền gần 800 triệu đồng.

Tại tòa, Oanh không thừa nhận hành vi của mình. Oanh nói bản thân đã xin việc thành công cho hai người, số người còn lại đã đồng ý chuyển từ chạy việc sang cho Oanh vay nợ. Hai người mà Oanh cho rằng đã xin được việc cho họ thì họ nói bản thân hai người từng tự nộp tiền vào học việc tại Trung tâm Huyết học và Truyền máu Nghệ An trong thời gian ngắn. Các bị hại khác cũng cho biết, không chuyển sang cho Oanh vay nợ mà yêu cầu Oanh phải trả tiền đã chiếm đoạt.

Còn Hằng nói bản thân đã cố gắng khắc phục trả tiền cho các bị hại. Thúy đã trả lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt nên được bị hại đứng lên xin giảm nhẹ hình phạt.

Theo PLO.VN