Bố mẹ bán đất có cần hỏi ý kiến của các con không?

Câu hỏi: Chào Luật sư. Tôi có thắc mắc về vấn đề bố mẹ bán đất có cần sự đồng ý của các con như sau: Tôi lấy vợ đã được 3 năm nay, tôi và bố mẹ tôi vẫn sống cùng với nhau trên một mảnh đất, nhưng vào tháng 1/2017 vừa rồi bố mẹ tôi bán mảnh đất này mà không nói gì với tôi và cũng không có chữ ký của tôi. Vậy cho tôi hỏi trường hợp này bố mẹ tôi làm như vậy có đúng theo quy định của pháp luật hay không ạ? Tôi xin cảm ơn luật sư rất nhiều.

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ Luật dân sự năm 2015 ;

Luật Đất đai năm 2013;

– Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đất đai.

  1. Luật sư tư vấn:

Do thông tin bạn cung cấp chưa được rõ ràng nên trường hợp của bạn sẽ được giải quyết như sau:

Trường hợp thứ nhất: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bố mẹ bạn:

Căn cứ theo quy định tại Điều 213 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung của vợ chồng:

Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

  1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
  2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
  3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
  4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
  5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”

Theo đó, nếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên bố mẹ bạn, thì mảnh đất này được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, bố mẹ bạn có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mảnh đất này hay nói cách khác bố mẹ bạn có toàn quyền bán mảnh đất này mà không cần có sự đồng ý của bạn.

Trường hợp thứ hai, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên “hộ”:

Căn cứ Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định như sau:

Điều 3. Giải thích từ ngữ

  1. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.

Theo đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình tức là cấp cho những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Bên cạnh đó, căn cứ quy định tại Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 64. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất

  1. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên.
  2. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư”.

Theo đó, chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì cần có sự đồng ý, ký tên của những người trong hộ trên hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất.

Như vậy, khi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi nhận là “hộ” nghĩa là quyền sử dụng mảnh đất này thuộc sở chung của những người trong hộ gia đình tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, khi bố mẹ bạn quyết định bán mảnh đất cần được có sự đồng ý của tất cả sở hữu chung, đồng nghĩa với việc có sự đồng ý của bạn.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Trịnh Thị Phương
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bố mất trước khi đất được cấp GCNQSD thì các con có được hưởng thừa kế không?

Luật Hiệp Thành tư vấn về trường hợp bố mất, sau đó đất mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho hộ gia đình có đúng không, những người con có quyền được thừa kế đối với phần của bố hay không và các vấn đề pháp lý khác có liên quan.

Câu hỏi: Dạ cho hỏi: Cha mẹ sống cùng 4 con trên 1 mảnh đất. Sau đó 3 con lập gia đình tách khẩu ở riêng. Đến năm 1988 cha mất. Đến năm 1995 đất mới được cấp sổ đỏ đầu tiên là sổ hộ gia đình gồm có mẹ và con còn lại sống cùng bà. Cha mẹ không có tên trong trích lục đất, không có hồ sơ đất nào lưu tên đất này của cha mẹ. 3 con không sống cùng mẹ cũng được cấp sổ đỏ hộ gia đình riêng của họ trên đất không phải của cha mẹ.

Trước đây cha mẹ có cho 3 người con này đất nhưng họ không nhận nên cha mẹ có cho em ruột mình dựng nhà ở và gọi con của hàng xóm đến cho ở cho vui, đợt cấp sổ năm 1995 con ông hàng xóm cũng được cấp sổ đỏ với diện tích lớn hơn trước đây cha mẹ cho nên người con sống cùng mẹ có khiếu kiện đòi lại nhưng không được vì không giấy tờ nào chứng minh đất của cha mẹ nên cứ tranh chấp mãi cho đến khi con hàng xóm vì muốn chia đất cho con làm nhà nên phải đồng ý trả lại 1 phần nhỏ đất đã chiếm giữ.

Vậy khi không có giấy tờ nào lưu là đất của cha mẹ thì 3 người con không sống cùng mẹ muốn chứng minh đất của cha mẹ để chia thừa kế của cha đã mất với sổ đỏ trên kia bằng 1 thư trả lời của ủy ban thành phố nói rằng đất này cha mẹ của 3 người đã sống trước năm 1980 được không? 3 người nói là để giúp cho người con sống cùng mẹ chuyển đổi mục đích đất sang đất ở ít tốn tiền nên mới làm thư xác nhận này, nhưng giờ người con này cũng chưa dùng thư trả lời kia để chuyển mục đích. 3 người còn nói họ có quyền thừa kế đất của cha họ trong đất này là có đúng không. Cha mẹ dù có nhiều đất cho người này người kia nhưng lại không có giấy tờ gì lưu là đất của họ. Giờ các con muốn chia thừa kế  đất đã được cấp sổ cho mẹ và con sống cùng mẹ được không luật sư? Cảm ơn luật sư!

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 24/11/2015;

  1. Luật sư tư vấn

Căn cứ vào thông tin bạn cung cấp, do bạn không đề cập về nguồn gốc của thửa đất là do bố mẹ khai hoang, nhận chuyển nhượng hay nhận tặng cho riêng, thừa kế riêng nên chúng tôi không thể tư vấn cụ thể được cho bạn về việc những người con có được hưởng phần thừa kế tài sản của người bố hay không. Do đó, để xem xét bố bạn có một phần quyền sử dụng đối với diện tích đất trên hay không, phải có căn cứ chứng minh được đất này hình thành trong thời kỳ hôn nhân của bố mẹ bạn, hoặc căn cứ vào hồ sơ địa chính có ghi nhận đây là tài sản chung của bố mẹ bạn hay không. Để giải quyết vấn đề này chúng tôi sẽ chia làm 2 trường hợp:

– Trường hợp 1: Nếu căn cứ vào hồ sơ địa chính, giấy tờ về đất đai,… có ghi nhận đây là tài sản chung của bố mẹ bạn hoặc được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận đất này là tài sản chung của bố mẹ thì trường hợp này, sổ đỏ cấp cho hộ gia đình vào năm 1995 đó chỉ xác định có mẹ bạn và người con sống chung đó là không đúng so với quy định của pháp luật. Như vậy, một trong số những người con có quyền yêu cầu hủy giấy chứng nhận đã cấp đó, và được yêu cầu phân chia di sản thừa kế đối với phần đất của bố.

Thời hiệu thừa kế theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định như sau:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

  1. a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
  2. b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

…”.

Theo đó, thời hạn để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có tài sản chết). Hết thời hạn này, di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

Tuy nhiên, căn cứ vào phần 1 Công văn 01/GĐ-TANDTC năm 2016 giải đáp vấn đề nghiệp vụ Tòa án quy định như sau: “Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/09/1990  thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990”.Do vậy trường hợp của bạn, bố bạn mất năm 1988 nên thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/09/1990, hiện nay vẫn còn thời hiệu để 3 người con yêu cầu phân chia di sản thừa kế.

– Trường hợp 2: Đất đó không có bất kỳ một giấy tờ nào ghi nhận hoặc xác nhận đây là tài sản chung của bố mẹ bạn, thì sẽ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp vào năm 1995 và 3 người con còn lại không có quyền được hưởng.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng