Bồi thường thiệt hại do công trình nhà người khác gây ra

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

  1. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Theo quy định tại Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.

Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.”

Như vậy, nếu có cơ sở để chứng minh công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì bạn có thể yêu cầu người đó bồi thường.

  1. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại khoản 5 Điều 11 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 11. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự

Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:

  1. Buộc bồi thường thiệt hại.

…”

Theo Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Điều 170. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bồi thường thiệt hại.”

Như vậy, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với người có hành vi gây thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự do hành vi gây ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể. Bên có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật này về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“Điều 584 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

 

 

Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là “hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện và áp dụng vào vụ án này được phân tích như sau:

Có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.

Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bồi thường đất nông nghiệp khi được nhà nước giao đất và cho thuê đất

Luật sư Nguyễn Duy Minh thuộc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành xin được tư vấn về việc bồi thường đất nông nghiệp khi được nhà nước giao và cho thuê đất theo quy định pháp luật như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Luật đất đai 2013;

Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

  1. Nội dung tư vấn:

Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện luật định thì được bồi thường. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.iệc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh  quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

Pháp luật có rất nhiều quy định liên quan đến vấn đề bồi thường đất khi nhà nước thu hồi: Từ điều 61 đến điều 82 Luật đất đai 2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, thì việc đất được giao hay cho thuê không là điiều kiện để được bồi thường khi nhà nước thu hồi. Đất được bồi thường khi nhà nước thu hồi khi

“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp“.

Còn riêng đối với loại đất nông nghiệp, Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật sư Nguyễn Duy Minh
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Hướng dẫn Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước

Nghị định này quy định chi tiết một số Điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sau đây gọi là Luật) về thiệt hại được bồi thường, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại và một số biện pháp tổ chức thi hành Luật.

  1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018.
  2. Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

Tải về Nghị định 68_2018_ND-CP_Hướng dẫn Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước

Xây nhà làm nứt nhà hàng xóm có phải bồi thường không?

Câu hỏi: Chào luật sư, hiện nay gia đình em đang xây dựng ngôi nhà 3 tầng, trong quá trình xây dựng không có đụng hay lấn chiếm gì nhà kế bên, đã được cấp phép xây dựng đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do khi xây dựng ngôi nhà gia đình em cũng không để ý nên giờ nhà hàng xóm ở cạnh bị nứt từ khi nào, ngôi nhà đó cũng đã xây được khoảng 15 năm rồi. Gia đình nhà em cũng đã thỏa thuận để sửa chữa lại chỗ nứt nhưng nhà hàng xóm nhất quyết không chịu. Giờ bên nhà hàng xóm đòi kiện ra Tòa để giải quyết. Luật sư cho em hỏi gia đình em phải làm thế nào và họ có kiện gia đình em ra Tòa được không, em xin cảm ơn!

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, Chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ Luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 91/2015/QH13 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.

 

  1. Luật sư tư vấn:

Căn cứ Điều 174 Bộ Luật dân sự 2015 quy đinh về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng, cụ thể như sau:

Điều 174. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng

Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.

Theo như bạn trình bày, trong quá trình xây dựng nhà, gia đình bạn không có đụng hay lấn chiếm gì nhà kế bên và cũng đã được cấp phép xây dựng đúng quy định của pháp luật, do đó gia đình bạn có quyền xây dựng ngôi nhà 3 tầng trên thửa đất của gia đình mình. Tuy nhiên, cũng theo quy định tại Điều 174 Bộ luật dân sự nêu trên thì gia đình bạn khi xây dựng ngôi nhà cần phải tuân theo các quy định của pháp luật không được gây ra thiệt hại cho tài sản của hàng xóm xung quanh. Đối với sự việc nhà hàng xóm bị nứt, trước hết bạn cần phải xác minh nguyên nhân dẫn đến việc nứt nhà hàng xóm của bạn có phải trực tiếp từ hành vi xây nhà của gia đình bạn hay không? Nếu đúng là do gia đình bạn xây nhà làm cho nhà hàng xóm bị nứt thì các bên có thể thương lượng với nhau về vấn đề bồi thường. Trường hợp hai bên không thể tiến hành thỏa thuận được với nhau về vấn đề bồi thường thì gia đình hàng xóm có thể kiện gia đình bạn ra Tòa án để yêu cầu Tòa giải quyết.

Căn cứ theo Điều 605 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra như sau:

 Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.

Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.

Do vậy, nếu gia đình hàng xóm kiện gia đình bạn ra Tòa thì Tòa án sẽ căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến thiệt hại và mức thiệt hại thực tế của phía nhà kế bên bạn để đưa ra mức độ bồi thường thiệt hại và có thể yêu cầu hoặc không yêu cầu gia đình bạn phải bồi thường.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Trịnh Thị Phương
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tư vấn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ do con cái gây ra

Cha mẹ có nghĩa vụ giáo dục, quản lý con vì vậy trong một số trường hợp khi con gây ra thiệt hại thì cha mẹ cũng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho con. Vậy quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào? Sau đây Luật Hiệp Thành đưa ra một số tư vấn liên quan đến vấn đề này như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014.

  1. Luật sư tư vấn

Khoản 5 Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về một trong những nghĩa vụ chung của vợ chồng là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.

Theo Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự.

Dẫn chiếu Bộ luật Dân sự năm 2015, theo quy định tại Điều 586 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:

“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

  1. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

  1. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”

Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Đây là những người chưa đủ năng lực hành vi dân sự.

Xuất phát từ vai trò trách nhiệm của cha, mẹ dạy dỗ giáo dục con cái nên trong trường hợp con chưa đủ 15 tuổi thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu như tài sản cha, mẹ không đủ để bồi thường nếu con có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Tuy nhiên, trong thời gian trường học đang quản lý trực tiếp nhưng có lỗi trong việc quản lý người dưới 15 tuổi để người đó gây ra thiệt hại thì trường học có trách nhiệm bồi thường thiệt hại (điều 599 Bộ luật Dân sự năm 2015)

Đối với trường hợp người đủ 15 tới 18 tuổi nếu có tài sản riêng thì họ có thể tự mình xác lập các giao dịch dân sự mà nghĩa vụ của nó cho phép thực hiện trong phạm vi tài sản của họ, do vậy trường hợp họ gây ra thiệt hại họ có trách nhiệm dùng tài sản riêng đó của mình để thực hiện bồi thường thiệt hại, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì khi đó cha, mẹ mới phải bồi thường bằng tài sản còn thiếu của mình. Có sự khác biệt so với trường hợp trên là do những người này cũng đã có nhận thức được một phần về hành vi của mình nhưng chưa đầy đủ nên việc pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo những đối tượng này cần phải cân nhắc và có trách nhiệm đối với hành vi của chính bản thân họ.

Trường hợp người chưa thành niên gây ra thiệt hại không còn cha mẹ thì người giám hộ của họ có trách nhiệm được dùng tài sản của người chưa thành niên (nếu có) để bồi thường, còn người chưa thành niên không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của con (trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được họ không có lỗi trong việc giám hộ người gây thiệt hại).

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác thì phải bồi thường như thế nào?

Chào Luật sư. Tôi có bị một người xúc phạm danh dự trên facebook. Tôi có ý định làm đơn tố cáo thì gia đình người đó qua nhà tôi có lời xin lỗi và đồng ý bồi thường thiệt hại cho tôi. Tôi muốn hỏi Luật sư trong trường hợp này tôi nên yêu cầu bồi thường như thế nào là phù hợp với quy định của pháp luật. Tôi muốn hỏi thêm các căn cứ pháp luật về bảo vệ quyền cá nhân về danh dự nhân phẩm để dễ nói chuyện với họ ? Cảm ơn

  1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật dân sự năm 2015

  1. Luật sư tư vấn:

Chào bạn, Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

Thứ nhất, căn cứ pháp lý về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định tại Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

“Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

  1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
  2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

  1. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
  2. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
  3. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.”

Thứ hai,  vấn đề bồi thường thiệt hại khi cá nhân bị xâm phạm về nhân phẩm, danh dự, uy tín được quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

“Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

  1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
  2. a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
  3. b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
  4. c) Thiệt hại khác do luật quy định.
  5. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Đối chiếu căn cứ trên ta thấy rằng người xúc phạm nhân phẩm danh dự của bạn sẽ phải bồi thường các khỏan sau:

Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; Thiệt hại khác do luật quy định; Bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Riêng khỏan bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận và mức tối đa cho một người bị xâm phạm nhân phẩm, danh sự không quá 10 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định. Mức lương cơ sở từ ngày 01/07/2018 là 1.390.000 đồng.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của bạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn. Vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Bồi thường thiệt hại do hành vi xây nhà gây sụt, lún công trình liền kề

Theo quy định của pháp luật, vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi xây nhà gây sụt, lún công trình liền kề được giải quyết như thế nào? Liên quan đến vấn đề này, Luật Hiệp Thành đưa ra những tư vấn như sau:

Hỏi: Nhà ông Trần Văn A là hàng xóm bên cạnh nhà tôi đang đào móng để xây dựng khách sạn, tuy nhiên, trong quá trình đào móng sâu phía bên dưới đã làm cho một phần nhà tôi bị lún và có rất nhiều đường rạn nứt trên tường. Khi phát hiện ra, tôi đã qua nói chuyện với ông A về việc rạn nứt và yêu cầu ông A sửa chữa nhà cho tôi nhưng ông A cho rằng việc xây nhà của ông A không liên quan đến nhà tôi, ông xây dựng trên đất của ông nên tôi không có quyền yêu cầu ông A bồi thường. Như vậy, hành vi của ông A có vi phạm pháp luật hay không? Tôi có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu ông A bồi thường hay không?

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới chúng tôi, sau đây Luật Hiệp Thành sẽ đưa ra tư vấn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015;

– Nghị định số 139/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/11/2017 Về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng;

– Thông tư số 05/2015/TT-BXD của Bộ Xây dựng ngày 30/10/2015 về quản lý chất lượng xây dựng và bảo trì nhà ở riêng lẻ.

  1. Nội dung tư vấn

– Thứ nhất, quy định của pháp luật về quy tắc trong xây dựng như sau:

Tại Điều 174 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng: “Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.”

Tiếp đó, Điều 8 Thông tư số 05/2015/TT-BXD ngày 30/10/2015 quy định về quản lý chất lượng xây dựng và bảo trì nhà ở riêng lẻ có quy định như sau:

Điều 8. Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm

  1. Trước khi thi công xây dựng, chủ nhà chủ động liên hệ với các chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình liền kề, lân cận để kiểm tra hiện trạng và ghi nhận các khuyết tật của công trình liền kề, lân cận (nếu có). Chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình liền kề, lân cận có trách nhiệm phối hợp với chủ nhà để kiểm tra, ghi nhận hiện trạng công trình làm căn cứ giải quyết các tranh chấp (nếu có).
  2. Trong quá trình thi công xây dựng, nếu công trình liền kề, lân cận có dấu hiệu bị lún, nứt, thấm, dột hoặc có nguy cơ sập đổ do ảnh hưởng của việc xây dựng nhà ở gây ra, chủ nhà phải phối hợp với chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng công trình liền kề, lân cận để kiểm tra, xác định nguyên nhân và thống nhất biện pháp khắc phục. Trường hợp các bên không thống nhất thì tranh chấp phát sinh được giải quyết theo quy định của pháp luật.”

Như vậy, khi xây dựng công trình, chủ sở hữu cần phải tuân theo các quy định pháp luật, không được làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho tài sản của nhà liền kề và xung quanh. Trước khi thi công chủ sở hữu công trình phải có trách nhiệm chủ đông liên hệ các chủ sở hữu công trình lân cận kiểm tra hiện trạng trước khi thi công. Nếu ông A xây nhà là nguyên nhân trực tiếp khiến nhà bạn bị lún, nứt thì ông A đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà bạn, vi phạm nguyên tắc trong xây dựng và phải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp khắc phục, bồi thường thiệt hại..

– Thứ hai, trách nhiệm của bên thi công xây dựng gây ảnh hưởng đến chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng công trình liền kề.

Căn cứ Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về việc bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.”

+ Xử phạt vi phạm hành chính: Hành vi thi công xây dựng gây ảnh hưởng đến công trình hạ tầng lân cận sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 Về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng như sau:

“3. Xử phạt đối với hành vi tổ chức thi công xây dựng công trình vi phạm quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng gây lún, nứt hoặc hư hỏng công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình lân cận (mà các bên không thỏa thuận được việc bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự); gây sụp đổ hoặc có nguy cơ gây sụp đổ công trình lân cận nhưng không gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người khác như sau:

  1. a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ tại nông thôn hoặc công trình xây dựng khác không thuộc trường hợp quy định tại điểm b, điểm c khoản này;
  2. b) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ tại đô thị;
  3. c) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật đầu tư xây dựng hoặc lập dự án đầu tư xây dựng.”

+ Bồi thường dân sự: Đồng thời, nếu nhà ông A trong quá trình xây dựng nhà gây ảnh hưởng, thiệt hại đến nhà của bạn thì họ phải ngừng việc thi công và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với sự cố do công trình của mình gây ra. Việc bồi thường thiệt hại do hai bên thỏa thuận, nếu các bên không thỏa thuận được về mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến thiệt hại và mức thiệt hại thực tế để đưa ra mức độ bồi thường thiệt hại cụ thể trong đó bao gồm mức thiệt hại thực tế đối với công trình lân cận bị hư hỏng và các chi phí khác có liên quan. Do đó, bạn cần chứng minh việc xảy ra rung, nứt ở nhà bạn là do việc thi công xây nhà của hàng xóm gây nên.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác anh/chị vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

 

Bồi thường thiệt hại trong xây dựng

Luật Hiệp Thành tư vấn về trường hợp công trình xây dựng bị gió bão gây hư hỏng thì người thi công xây dựng có phải bồi thường không? Cụ thể như sau:

Câu hỏi:

Chào các Luật sư. Mong các Luật sư tư vấn cho mình trường hợp như sau: Công ty mình có ký hợp đồng với 1 công ty tư nhân, bên mình nhận thi công nhà xưởng, thi công đã xong và chủ đầu tư đã cho vào sử dụng, nhưng chủ đầu tư chưa thanh toán hết cho công ty mình dù đã 2 tháng, biên bản nghiệm thu thì họ ký rồi nhưng chưa gửi lại cho bên mình, họ hẹn 3 ngày nữa sẽ chuyển tiền và gửi lại hồ sơ , nhưng ngày hôm sau bão vào và làm tốc mái nhà xưởng và xà gồ. Không riêng 1 xưởng của mình mà xưởng cũ của họ nữa, vậy xin hỏi các Luật sư thiệt hại như vậy bên nào chịu, và nhờ các Luật sư có cách nào để thương lượng hay nhất đối với trường hợp này, xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành. Sau khi xem xét vấn đề bạn đưa ra, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật, chúng tôi xin giải đáp vấn đề của bạn như sau:

  1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật Dân sự năm 2015;

  1. Luật sư tư vấn

Theo Điều 584 và Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

  1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
  2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
  3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

“Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

  1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
  2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
  3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
  4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
  5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”

Căn cứ Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

Điều 605. Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.

Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường.”

Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“…Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình..”

Theo quy định tại Điều 605 BLDS năm 2015 nêu trên, chủ sở hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng phải bồi thường thiệt hại nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên, trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng thì không phải bồi thường. Trong trường hợp của bạn, thiệt hại xảy ra do thiên tai là sự kiện bất khả kháng, xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được trong khả năng cho phép. Do đó, trong trường hợp này, công ty bạn không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự kiện bất khả kháng.

Trừ trường hợp việc thiên tai làm bay mái nhà của công ty tư nhân gây thiệt hại cho những ngôi nhà bên cạnh do mái nhà của công ty tư nhân của công ty bạn nhận làm được xây lắp không đảm bảo an toàn kĩ thuật dẫn đến thiệt hại. Trong trường hợp này phải chứng minh được hành vi trái pháp luật và yếu tố lỗi của công ty bạn thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường.

Về việc thương lượng: Nếu lỗi không thuộc về công ty bạn thì công ty không phải bồi thường bất kỳ khoản chi phí nào, ngoài ra công ty tư nhân kia có trách nhiệm thanh toán các chi phí còn lại sau khi công ty bạn làm xong nhà xưởng như bạn đã trình bày trên; nếu chứng minh được lỗi thuộc về công ty bạn thì công ty bạn phải bồi thường, nhưng do công ty tư nhân chưa thanh toán xong thì công ty bạn có thể thỏa thuận về việc trừ những khoản chưa thanh toán để bồi thường thiệt hại về tài sản cho công ty tư nhân.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Phân tích việc khiếu nại, khiếu kiện đối với việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Hiện nay, số vụ việc khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến các nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất và các tài sản gắn liền với đất luôn chiếm một tỷ lệ cao trong những năm gần đây. Trong khi đó, những quy định của pháp luật về khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có nhiều chỗ bất cập, không thống nhất.

Cụ thể là pháp luật chuyên ngành (Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn) không thống nhất với Luật Khiếu nại, tố cáo về thủ tục giải quyết khiếu nại; pháp luật về tố tụng (Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính) không thống nhất với pháp luật tiền tố tụng (Luật Khiếu nại, tố cáo)… Bài viết dưới đây Luật sư sẽ phân tích một số quy định của pháp luật liên quan quyền khiếu nại, khiếu kiện trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

  1. Cơ sở hiến định và pháp định của quyền khiếu nại, khiếu kiện

Khiếu nại là một quyền hiến định, được quy định tại Điều 74 của Hiến pháp năm 1992. Quyền này được quy định chi tiết tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 (Luật KNTC). Có thể nói, quyền khiếu nại ở Việt Nam được xây dựng từ khá sớm1 và khá quen thuộc trong đời sống pháp lý của người Việt Nam.

Khác với quyền khiếu nại, quyền khiếu kiện được quy định muộn hơn, gắn liền với sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung 1998 và 2006 (Pháp lệnh TTGQCVAHC). Ở Việt Nam, Hiến pháp không đề cập đến quyền khiếu kiện. Văn bản quy phạm pháp luật cao nhất ghi nhận và hướng dẫn quyền này là Pháp lệnh TTGQCVAHC. Điều này cho thấy, chưa có sự thống nhất trong việc nhìn nhận hai loại quyền này trong khi nó cùng song hành bảo vệ lợi ích người dân và hướng đến việc nâng cao hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước.

So với khiếu kiện, việc giải quyết khiếu nại được thực hiện bởi những chủ thể thừa hành hành chính (cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) đã ban hành quyết định hành chính (QĐHC), thực hiện hành vi hành chính (HVHC) hoặc cấp trên trực tiếp của các chủ thể này). Vì vậy, ưu điểm của khiếu nại là ngay khi bắt tay vào giải quyết khiếu nại, vụ việc đã được nắm rất rõ, rất chi tiết và có thể được giải quyết nhanh chóng. Nếu được tận dụng, sẽ tiết kiệm được phần nào thời gian, công sức, chi phí xem xét từng tình tiết của vụ việc. Tuy nhiên, việc giải quyết khiếu nại có thể dẫn đến chủ quan và định kiến khi xem xét lại vụ việc đã và đang quản lý, đồng thời với tâm lý e ngại việc công nhận QĐHC, HVHC của chính mình là không đúng, nên có thể có những hạn chế nhất định.

Trong khi đó, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện là thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân dân – chủ thể độc lập tương đối với cả hai bên: người khởi kiện (người dân) và người bị kiện (cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN). Với cơ chế giải quyết bởi Tòa án, chủ thể giải quyết khiếu kiện có phạm vi độc lập, không chịu định kiến bởi các lăng kính của các chủ thể quản lý nhà nước (QLNN) và vì vậy, có thể đưa ra một kết quả công minh. Tuy nhiên, do phải bắt đầu lại toàn bộ vụ việc từ yếu tố đầu tiên nên chủ thể giải quyết khiếu kiện có thể cần nhiều thời gian, công sức và chi phí. Mặt khác, do không là chủ thể trực tiếp quản lý nên chủ thể này có thể phải cần những cơ quan hỗ trợ về mặt kỹ thuật như: cơ quan giám định về thiệt hại trong thu hồi đất, đánh giá quỹ đất tái định cư…

  1. Phạm vi của quyền khiếu nại, khiếu kiện nói chung

Mặc dù Hiến pháp quy định quyền khiếu nại có thể được thực hiện đối với “những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước” (Điều 74 Hiến pháp năm 1992), tuy nhiên, quyền này lại bị giới hạn trong Luật KNTC ở hai phạm vi: (i) phải là QĐHC cá biệt, tức là quyết định chứa đựng quy tắc xử sự cá biệt, được ban hành nhằm giải quyết những công việc cụ thể đối với những đối tượng xác định, có hiệu lực một lần theo vụ việc…và (ii) phải là HVHC cụ thể.

Điều này cũng đồng nghĩa với việc, cá nhân, tổ chức không thể khiếu nại đối với các QĐHC quy phạm, QĐHC chủ đạo – những loại văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung, có tính định hướng và có phạm vi áp dụng rộng rãi.

Quyền khiếu kiện được xác định trong Pháp lệnh Trình tự giải quyết các vụ án hành chính (TTGQCVAHC) là một quyền có phạm vi hẹp, hẹp hơn cả quyền khiếu nại. Thứ nhất, theo trình tự tiền tố tụng hiện hành, quyền khiếu kiện sẽ không được thực hiện nếu chưa qua khiếu nại lần đầu, tức là đã được giải quyết khiếu nại lần đầu mà vẫn không đồng ý hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định mà vẫn không được giải quyết (Điều 39 Luật KNTC). Điều này có thể hiểu, “cánh cổng” khiếu kiện nằm sau “cánh cổng” khiếu nại, và quyền khiếu kiện chỉ được thực hiện chỉ khi thuộc loại việc “đi qua được cánh cổng khiếu nại”. Thứ hai, nếu quyền khiếu nại được xác định chủ yếu theo hướng “mở” ở hai nội dung là QĐHC cá biệt và HVHC, thì quyền khiếu kiện được xác định theo hướng “đóng” ở 22 loại việc liệt kê tại Điều 11 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung2 năm 2006 (Pháp lệnh 1996 là 8 loại việc; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1998 là 10 loại việc). Như vậy sẽ có một số khiếu nại đã “hoàn thành xong” các trình tự về khiếu nại vẫn có thể không được thụ lý giải quyết khiếu kiện vì không thuộc một trong 22 loại việc mà Pháp lệnh hiện hành đã liệt kê. Thứ ba, ngoài hai “điều kiện cần” nêu trên, đối với một số loại QĐHC, HVHC, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2006 còn quy định các “điều kiện đủ” như: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng… trong các trường hợp sau đây:

– Đối với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai do Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý và không tiếp tục khiếu nại đến UBND cấp tỉnh.

– Đối với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó (Điều 2, khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh TTGQCVAHC)”.

Điều này có nghĩa là, trong lĩnh vực này, ngoài hai loại QĐHC, HVHC nêu trên, Tòa án sẽ không thụ lý. Tóm lại, có thể nói phạm vi của quyền khiếu kiện hành chính ở Việt Nam rất hẹp và được giới hạn “đóng” trong các loại việc mà văn bản hiện hành xác định.

  1. Quyền khiếu nại, khiếu kiện trong hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Theo quy định của Luật KNTC, trình tự khiếu nại, khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC được thực hiện qua các bước sau:

Bước 1: Nếu không đồng ý với QĐHC, HVHC của chủ thể ban hành QĐHC hoặc thực hiện HVHC thì phải khiếu nại trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận được QĐHC hoặc biết được HVHC (Điều 31).

Bước 2: Cơ quan giải quyết khiếu nại phải trả lời bằng văn bản về việc thụ lý hay không thụ lý đơn khiếu nại với lý do rõ ràng. Kể từ ngày thụ lý giải quyết, Cơ quan giải quyết khiếu nại phải giải quyết khiếu nại trong vòng 30 ngày, đối với vùng sâu, vùng xa là 45 ngày (Điều 34, Điều 36).

Bước 3: Trong thời hạn 30 ngày (vùng sâu, vùng xa là 45 ngày) kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền:

– Khởi kiện ra Tòa hành chính. Nếu đã khởi kiện thì phải đi theo con đường tố tụng, không trở lại con đường hành chính nữa.

– Khiếu nại lên cấp trên trực tiếp (Điều 39).

Bước 4: Trường hợp khiếu nại lên cấp trên trực tiếp, cấp trên phải trả lời về việc có thụ lý hay không trong vòng 10 ngày. Kể từ ngày thụ lý giải quyết, phải giải quyết khiếu nại trong vòng 45 ngày, đối với vùng sâu, vùng xa là 60 ngày (Điều 42, 43).

Bước 5: Trong thời hạn 30 ngày (vùng sâu, vùng xa là 45 ngày) kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà người khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện ra Tòa hành chính (Điều 46).

Tuy nhiên, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số 181/2004/NĐ-CP3, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP4) cùng với Pháp lệnh TTGQCVAHC hiện hành lại có những quy định khác biệt sau:

  1. a) Đối với QĐHC, HVHC liên quan đến hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Chủ tịch UBND cấp huyện.

– Tại Bước 1, nếu Luật KNTC quy định thời hiệu khiếu nại là 90 ngày “kể từ ngày nhận được QĐHC hoặc biết được HVHC” thì Điều 63 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ là 90 ngày “kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp huyện có QĐHC, HVHC”. Vì vậy, mặc dù hai văn bản trên đều ghi 90 ngày nhưng thời hiệu là khác nhau vì thời gian “nhận được”, “biết được” QĐHC, HVHC diễn ra sau thời điểm “có” QĐHC, HVHC có thể là rất lâu… Dự trù trước được điều này, Luật KNTC còn quy định rất rõ: “Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại đúng thời hiệu, thì thời gian trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại” (đoạn 2 Điều 31).

– Ngoài ra, liên quan đến Bước 5, có những điểm không thống nhất với Luật KNTC như sau:

+ Luật KNTC gọi là quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng Luật Đất đai (Điều 138) gọi là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;

+ Vì đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, nên theo Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất không thể khởi kiện theo con đường tố tụng hành chính;

+ Trong điều kiện đó, Pháp lệnh TTGQCVAHC5 lại đặt ra giới hạn đối với “khiếu kiện QĐHC, HVHC về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, cụ thể là chỉ cho phép khiếu kiện đối với quyết định giải quyết khiếu nại hành chính lần đầu (Bước 3) mà không cho phép khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại hành chính lần hai (Bước 5).

Vì vậy, nếu áp dụng theo Luật Đất đai năm 2003 và Pháp lệnh TTGQCVAHC sẽ làm hạn chế quyền khởi kiện vụ án hành chính sau khi đã được giải quyết khiếu nại hành chính lần hai.

  1. b) Đối với QĐHC, HVHC liên quan đến hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Chủ tịch UBND cấp tỉnh

– Ở Bước 1, nếu Luật KNTC quy định thời hiệu khiếu nại là “90 ngày, kể từ ngày nhận được QĐHC hoặc biết được HVHC” thì Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ là “30 ngày, kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp tỉnh có QĐHC, HVHC”. Ở đây, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP đã mâu thuẫn với Luật KNTC ở hai điểm. Thứ nhất, thời hiệu 90 ngày bị rút xuống còn 30 ngày. Thứ hai, hai thời điểm “nhận được”, “biết được” QĐHC, HVHC và thời điểm “có” QĐHC, HVHC là khác nhau…

– Tại Bước 3, các văn bản chỉ ghi nhận quyền khởi kiện ra Tòa hành chính, chứ không ghi nhận quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp (Điều 138 Luật Đất đai, Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP). Như vậy sẽ không có Bước 4 và Bước 5. Việc không có Bước 5 này cũng được gián tiếp khẳng định tại điểm b, khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh TTGQCVAHC. Nếu theo các căn cứ pháp lý này thì cơ chế khiếu nại hai cấp trong Luật KNTC6 đã bị phủ nhận, làm hạn chế quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp và vì vậy, cũng gián tiếp hạn chế quyền khiếu kiện ở những bước sau đó.

Vậy, trong các trường hợp nêu trên, trong hoạt động thực thi pháp luật, văn bản nào, điều khoản nào được viện dẫn và áp dụng thi hành?

Văn bản pháp quy gần đây nhất của Chính phủ về hướng dẫn các vấn đề có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Theo Nghị định này thì “việc giải quyết khiếu nại về giá đất bồi thường, quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hoặc quyết định cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện theo Điều 138 Luật Đất đai, Điều 63, Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP và quy định giải quyết khiếu nại tại Nghị định số 136/2006/NĐ-CP7 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật KNTC”.

Điều này cho thấy, trong quá trình áp dụng, các chủ thể hành pháp đã viện dẫn Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành trước khi viện dẫn Luật KNTC (và điều này cũng đồng nghĩa với việc Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được viện dẫn sau cùng). Trong khi đó, các văn bản đất đai có xu hướng thu hẹp quyền của người khiếu nại, khiếu kiện vì vậy, khi áp dụng theo các văn bản này, tức là đã thu hẹp quyền khiếu nại, khiếu kiện mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã quy định, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

  1. Đối tượng của khiếu nại, khiếu kiện và phạm vi giải quyết khiếu nại, khiếu khiếu kiện

Đối tượng của khiếu nại trong hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bao gồm:

– Quyết định thu hồi đất

– Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư (khoản 1 Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP)

– Các HVHC của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết các công việc thuộc phạm vi QĐHC nêu trên (khoản 2 Điều 162 Nghị định số181/2004/NĐ-CP).

Riêng đối tượng của khiếu kiện thì phải nằm trong phạm vi của đối tượng khiếu nại sau khi đã thực hiện việc khiếu nại lần đầu.

Trong khoa học luật hành chính, QĐHC thể hiện hai tính chất: tính hợp pháp và tính hợp lý nhưng trong cả hai trường hợp trên, quyền khiếu nại, khiếu kiện chỉ được thực hiện trên cơ sở tính hợp pháp8.

Điều này cho thấy, pháp luật chỉ dừng lại ở việc xác định loại QĐHC, HVHC nào là đối tượng của khiếu nại, chứ chưa thực sự xác định phạm vi mà người khiếu nại, khiếu kiện có thể đề cập và được giải quyết, chẳng hạn như: mục đích thu hồi đất, trình tự, thủ tục thu hồi đất, diện tích tái định cư trong một lô nền, giá đất…

Ví dụ, nếu trường hợp giá đất bồi thường quá thấp so với giá trên thực tế, chủ thể giải quyết khiếu nại có thể từ chối giải quyết vì cho rằng đã căn cứ đúng vào bảng giá mà UBND tỉnh đã ban hành đầu năm. Người dân thì không thể khiếu nại bảng giá vì quyết định ban hành bảng giá đất không phải là quyết định cá biệt trực tiếp ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức theo Luật KNTC. Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng chưa tạo cơ chế đối với việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện. Ngoài việc đặt ra những giới hạn về quyền khiếu kiện, bản thân việc giải quyết khiếu kiện của Tòa hành chính cũng hạn chế bởi chưa có cơ chế quy định Tòa án xem xét lại tính phù hợp của bảng giá đất mà UBND tỉnh ban hành nếu người khiếu kiện cho rằng bảng giá đất mà UBND tỉnh quy định dùng áp giá là quá thấp so với thực tế giao dịch trên thị trường.

  1. Đề xuất một số giải pháp

Thứ nhất, nên bổ sung quyền khiếu kiện hành chính trong Hiến pháp. Ở các nước tiên tiến, quyền khiếu kiện (right to be heard) là một quyền hiến định, có vai trò quan trọng đối với việc phản kháng QĐHC, HVHC trước chủ thể thứ ba, độc lập và có thẩm quyền phân định ranh giới pháp lý giữa một bên là chủ thể có thẩm quyền HCNN và bên kia là cá nhân, tổ chức.

Thứ hai, nên thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng Luật KNTC phải được tôn trọng. Đây là đạo luật tiến bộ thể chế hóa Điều 74 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận các quyền năng của chủ thể chịu sự quản lý – vốn được coi là chủ thể cần được bảo vệ. Mặt khác, nếu đã pháp điển hóa một Luật KNTC dùng cho quản lý HCNN thì các đạo luật và các văn bản dưới luật khác nên tôn trọng “quy chuẩn chung về khiếu nại” này. Thử hỏi, nếu đạo luật chuyên ngành nào cũng đặt ra ngoại lệ cho riêng mình và sử dụng Luật KNTC như một đạo luật “phòng hộ” khi không có quy định, thì hệ thống pháp luật chắc chắn sẽ mâu thuẫn, chồng chéo và Luật KNTC, trong chừng mực nhất định, sẽ bị “vô hiệu hóa”. Nên chăng, cần đề ra nguyên tắc nếu một lĩnh vực QLNN cần có ngoại lệ về khiếu nại, tố cáo thì chính Luật KNTC phải nói rõ. Mọi trường hợp khác về khiếu nại, tố cáo, tất phải tuân thủ luật này. Đây là một trong những quan điểm được sự đồng thuận của các nhà lập pháp hiện nay, điều này đã được thể hiện trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Đất đai năm 2003: “Việc giải quyết khiếu nại về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo” (Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, khoản 2 Điều 138)9.

Thứ ba, trong điều kiện nước ta đang xây dựng nền kinh tế mở theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh, nhiều tình huống mới phát sinh. Trong trường hợp các văn bản có sự mâu thuẫn nhau, việc các cơ quan thừa hành pháp luật “chỉ mục” nên áp dụng đạo luật này hay đạo luật kia trong một số trường hợp nhất định là giải pháp tình thế cần thiết. Tuy nhiên, để bảo đảm nguyên tắc pháp chế, việc chỉ mục này nên đặt dưới nguyên tắc “có lợi cho người bị áp dụng” và tuyệt đối không được thu hẹp các quyền và lợi ích chính đáng của người dân mà Hiến pháp và các đạo luật quy định.

Thứ tư, quyền khiếu kiện hành chính là một quyền thiết yếu trong một cơ chế QLNN công bằng, dân chủ. Việc giới hạn, đặt những điều kiện để hạn chế quyền này là việc không bảo đảm yếu tố công bằng giữa một bên là cơ quan HCNN và bên kia là cá nhân, tổ chức chịu sự quản lý. Việc giải quyết khiếu nại do chính cơ quan hành chính thực hiện, tuy rằng rất cần thiết, nhưng không thể triệt để vì “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Pháp luật cần quy định quyền khiếu kiện được đầy đủ trong mọi trường hợp sau khi đã khiếu nại không thành để đảm bảo “quyền được nghe thấy bởi bên thứ ba” làm trọng tài và độc lập đưa ra phán quyết đối với các bên.

Cuối cùng, mọi quy định về quyền khiếu nại, khiếu kiện và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện sẽ trở nên vô nghĩa nếu bản thân pháp luật không xác định được phạm vi khiếu nại, hoặc xác định phạm vi khiếu nại quá hẹp. Mặt khác, các chủ thể bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp sẽ không thể được bảo vệ nếu không có cơ chế để giải quyết khiếu kiện. Đặc biệt nên dự hướng trong tương lai việc trao cho chủ thể giải quyết khiếu kiện có đủ khả năng để xem xét, đánh giá không chỉ QĐHC, HVHC cá biệt; với việc xây dựng Tòa án Hiến pháp, nên chăng trao cho Tòa án quyền xem xét một số loại QĐHC quy phạm đặc thù, ví dụ như xem xét tính hợp lý của bảng giá đất mà UBND cấp tỉnh ban hành có “sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường”10 để quyền khiếu nại, khiếu kiện được đảm bảo triệt để hơn.

Chú thích:

(1) Trước Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, ở Việt Nam đã có Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân ngàY 27/11/1981; Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 7/5/1991…

(2)Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm 2006.

(3) Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.

(4) Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.

(5) Điều 2 và khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh TTGQCVAHC.

(6) Xem Điều 25 Luật KNTC.

(7) Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KNTC.

(8) Xem khoản 1, Điều 2 của Luật KNTC; Điều 1 của Pháp lệnh TTGQCVAHC.

(9) Diễn đàn các doanh nghiệp Việt Nam, Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm2003

(10)Xem Điều 11 Nghị định 69/NĐ-CP 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Trên đây là một số phân tích của Luật Hiệp Thành. Nếu còn vấn đề vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Tai nạn giao thông nhưng không có lỗi thì có phải bồi thường không?

Theo quy định của Bộ luật dân sự: người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Bồi thường trong trường hợp xảy ra tai nạn giao thông là trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Câu hỏi khách hàng:

Xin chào Luật sư, tôi cần được tư vấn về vụ việc tai nạn giao thông như sau: tôi điều khiển xe ô tô, đi đúng đường; có một bạn thanh niên đi xe máy đi ngược chiều tôi và đâm vào xe tôi. Bạn đó bị thương, và gia đình đang yêu cầu tôi bồi thường 500 triệu. Vậy cho tôi hỏi, nếu như trường hợp tôi không có lỗi thì tôi có phải bồi thường không? Xin được tư vấn?

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015;

– Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

  1. Luật sư tư vấn:

Sau khi nghiên cứu về trường hợp của bạn. Chúng tôi xin đưa ra ý kiến nhận định như sau:

Theo quy định của Bộ luật dân sự: người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Bồi thường trong trường hợp xảy ra tai nạn giao thông là trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện sau:

  1. Thứ nhất: phải có hành vi trái pháp luật

Hành vi trái pháp luật là các hành vi trái với những quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho những người xung quanh và xâm phạm đến các mối quan hệ xã hội mà nhà nước bảo vệ.

  1. Thứ hai: phải có lỗi

“Lỗi” là yếu tố thuộc mặt chủ quan của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, theo quy định của pháp luật lỗi được chia thành lỗi cố ý và lỗi vô ý.

Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện, mong muốn thiệt hại xảy ra với người khác hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc thiệt hại xảy ra.

Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù có thể biết trước hoặc pháp luật quy định phải biết thiệt hại sẽ xảy ra hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc tin rằng mình có thể ngăn chặn được.

  1. Thứ ba, phải có thiệt hại xảy ra

Thiệt hại trong trường hợp tai nạn giao thông thường có:

Thiệt hại về vật chất: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm gồm có:

– Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.

– Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.

– Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm gồm có:

-Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

-Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm gồm có:

-Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

Đối với trường hợp gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng người có lỗi gây thiệt hại còn phải có trách nhiệm bồi thường thêm một khoản tiền khác, gọi là “tiền bù đắp tổn thất về tinh thần” cho người bị hại. Mức bồi thường sẽ do hai bên thỏa thuận, nếu trường hợp không thỏa thuận được thì mức bồi thường tinh thần khi gây thiệt hại về sức khỏe có thể được áp dụng là không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Mức bồi thường về tinh thần cho trường hợp gây thiệt hại về tính mạng tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Bên cạnh đó trong những vụ việc thông thường còn có thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm:

– Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

  1. Thứ tư: phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật:

Điều này có nghĩa hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật.

Vì vậy khi xảy ra tai nạn giao thông chỉ khi nào xác định được đầy đủ bốn yếu tố trên thì mới đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vi phạm. Trong trường hợp của bạn, bạn không có lỗi mà lỗi xuất phát từ người bị thiệt hại thì bạn sẽ không có trách nhiệm phải bồi thường.

Bạn có thể hỗ trợ cho gia đình bị hại một phần chi phí chữa bệnh, chăm sóc nếu hai bên có thỏa thuận.

Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật Hiệp Thành về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách mọi ý kiến thắc mắc của Quý khách hàng vui lòng gửi tới:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng

Trách nhiệm bồi thường khi gây tai nại giao thông gây chết người

Luật Hiệp Thành tư vấn về trường hợp Trách nhiệm bồi thường khi gây tai nại giao thông gây chết người. Nội dung tư vấn như sau:

Câu hỏi: Thưa Luật sư. Tôi xin được luật sư tư vấn giúp tôi là như thế này: Tôi có điều khiển xe ô tô đi đúng phần đường, không có nồng độ cồn, không chạy quá tốc độ, giấy tờ đầy đủ. Khi đang lưu thông thì có 1 xe mô tô A chuyển làn bên hướng ngược chiều bị một xe mô tô B đi hướng ngược lại với chiều lái xe của tôi và va chạm với xe mô tô A và tiếp tục va chạm vào xe của tôi. Lúc đó tôi có xuống xe kêu người dân xung quanh cấp cứu người bị nạn và thông báo cho cảnh sát giao thông đến. Khi cảnh sát giao thông đến thì có kiểm tra nồng độ cồn và giấy tờ các kiểu xong rồi bảo tôi về trụ sở công an đợi. Thì vài giờ đồng hồ sau thì có cán bộ điều tra gọi tôi lên lấy lời khai và thông báo cho tôi là người điều khiển mô tô B đã tử vong và làm thủ tục các kiểu và cho tôi về hiện tại thì xe và giấy tờ bị công an giam giữ. Xin hỏi Luật sư trong trường hợp như vậy tôi có vi phạm về an toàn giao thông và có trách nhiệm bồi thường không? Xin chân thành cám ơn Luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong Thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

– Bộ luật dân sự năm 2015.

  1. Luật sư tư vấn:

Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  1. a) Làm chết người;
  2. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

…”

Trong các vụ tai nạn giao thông, cơ quan công an căn cứ vào một số yếu tố như hoàn cảnh khi xảy ra tai nạn, lỗi của các bên, hành vi vi phạm pháp luật giao thông, hậu quả của tai nạn… để xác định trách nhiệm của các bên. Theo thông tin bạn cung cấp, bạn điều khiển xe ô tô đi đúng phần đường, không có nồng độ cồn, không chạy quá tốc độ, giấy tờ đầy đủ nhưng cơ quan công an cũng căn cứ vào một số vấn đề như bạn có đang nghe điện thoại hay không chú ý lái xe không, phản ứng của bạn khi người bị nạn va chạm với xe của mình,… để kết luận về việc bạn có vi phạm luật giao thông không và xác định trách nhiệm của bạn.

Trong trường hợp bạn có hành vi vi phạm giao thông đường bộ, bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sựtheo quy định của Điều trên và phải bồi thường cho gia đình người bị nạn theo quy định tại Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

  1. a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
  2. b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  3. c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
  4. d) Thiệt hại khác do luật quy định.
  5. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Trường hợp cơ quan công an xác định bạn không có hành vi vi phạm giao thông, bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc bồi thường thiệt hại sẽ do gia đình nạn nhân và bạn, người va chạm với nạn nhân trước đó thỏa thuận với nhau, nếu không thỏa thuận được sẽ do Tòa án quyết định dựa vào một số yếu tố như lỗi các bên, thiệt hại về tính mạng, thiệt hại tài sản (về phương tiện, chi phí cấp cứu,…), thiệt hại tinh thần,…

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:

Công ty Luật TNHH Hiệp Thành

0942141668

Email : luathiepthanh@gmail.com

Trân Trọng