Từ 1/1/2022, thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm phải kê khai giá

Theo Nghị định 98/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2022, trang thiết bị y tế sẽ là mặt hàng phải kê khai giá.

Ngày 30/12, Bộ Y tế tổ chức hội nghị trực tuyến phổ biến nội dung của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế.

Trước đó, ngày 8/11, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2021/NĐ-CP về Quản lý trang thiết bị y tế có hiệu lực từ ngày 1/1/2022 để thay thế các nghị định liên quan.

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên chủ trì hội nghị phổ biến nội dung của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP về Quản lý trang thiết bị y tế tại điểm cầu Bộ Y tế.

Nghị định thay đổi theo hướng chuyển cơ chế quản lí từ tiền kiểm sang hậu kiểm; tăng cường phân cấp, chú trọng thực hiện triệt để cải cách thủ tục hành chính; đồng thời, bổ sung các biện pháp quản lí giá trang thiết bị y tế…

Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, nghị định số 98 đã hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc quản lý trang thiết bị y tế, giải quyết các tồn tại, hạn chế, bất cập hiện nay của hệ thống pháp luật quản lý trang thiết bị y tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý và yêu cầu hội nhập trong lĩnh vực trang thiết bị y tế.

Nghị định này là căn cứ để các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất, cung ứng trang thiết bị y tế và các nhà quản lý các cấp cũng như lãnh đạo các bệnh viện, cơ sở y tế xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ để làm tốt chức trách, nhiệm vụ, góp phần đảm bảo chất lượng, hiệu quả đầu tư, khai thác sử dụng trang thiết bị y tế.

Nghị định có hàng loạt những điểm mới. Trong đó, bãi bỏ 16/30 thủ tục hành chính lĩnh vực trang thiết bị y tế, đơn giản hóa 5/30 thủ tục hành chính. Nghị định thay đổi hình thức của thủ tục công bố đủ điều kiện sản xuất, mua bán, tư vấn kỹ thuật trang thiết bị y tế bằng việc kiểm soát điều kiện thông qua hệ thống công nghệ thông tin.

Các cơ sở, cá nhân khi hoạt động kinh doanh dịch vụ trang thiết bị y tế tự cập nhật thông tin để chứng minh việc đáp ứng các điều kiện theo quy định của Nghị định trên hệ thống điện tử của Bộ Y tế. Cơ quan quản lí không rà soát, kiểm tra hồ sơ khi tiếp nhận mà chuyển sang thực hiện hậu kiểm.

Nghị định bổ sung các trường hợp cấp nhanh, cấp khẩn cấp các số lưu hành trong tình trạng cấp bách phục vụ phòng, chống dịch bệnh trên cơ sở thừa nhận các sản phẩm đã được cấp lưu hành hoặc sử dụng khẩn cấp của các nước tiên tiến. Đặc biệt, sửa đổi hiệu lực số lưu hành của trang thiết bị y tế có giá trị không thời hạn, thay vì 5 năm như trước. Doanh nghiệp có trách nhiệm cập nhật hồ sơ khi có thay đổi trong quá trình lưu hành trang thiết bị y tế.

Thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm phải kê khai giá từ 1/1/2022.

Nghị định đưa trang thiết bị y tế vào mặt hàng phải kê khai giá. Trong đó quy định cụ thể nội dung kê khai giá gồm giá vốn nhập khẩu hoặc giá vốn sản xuất, chi phí quản lí, chi phí đào tạo, bảo dưỡng, chi phí bảo hành, lợi nhuận dự kiến và giá bán cuối cùng. Nghị định yêu cầu công khai minh bạch thông tin về giá bán, giá trúng thầu trang thiết bị y tế trên cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế.

Vụ trưởng Vụ Trang thiết bị y tế (Bộ Y tế) Nguyễn Minh Lợi cho biết: “Doanh nghiệp sẽ phải kê khai giá vốn nhập khẩu với trang thiết bị y tế nhập khẩu và chi phí sản xuất đối với sản phẩm trong nước sản xuất, lợi nhuận dự kiến, chi phí đào tạo (nếu có), giá bán tối đa… Điều này nhằm tránh câu chuyện mua bán lòng vòng đẩy giá cao hơn giá thực tế. Chỉ chủ sở hữu mới được kê khai giá, trong đó công khai giá bán, lợi nhuận… để đảm bảo mặt hàng giá ổn định”.

Nghị định cũng quy định các nhà phân phối không được bán hơn giá mà chủ sở hữu số lưu hành đã công khai. Đồng thời phải niêm yết, công khai giá mà nhà phân phối đó bán. Cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền được quyền yêu cầu doanh nghiệp giải trình về các yếu tố cấu thành giá khi cần thiết.

Nghị định 98 có 5 điểm mới cơ bản: (1) Bãi bỏ 16 trong 30 thủ tục hành chính về trang thiết bị y tế; (2) Đơn giản hóa 5/30 thủ tục hành chính lĩnh vực trang thiết bị y tế; (3) Tăng cường phân cấp, thay đổi cơ bản cơ chế quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm – tăng cường công tác kiểm tra, đặc biệt là giám sát chất lượng của trang thiết bị y tế; (4) Sửa đổi hiệu lực của số lưu hành của trang thiết bị y tế có giá trị không thời hạn, thay vì 5 năm như trước đây trong đó yêu cầu doanh nghiệp có trách nhiệm cập nhật hồ sơ khi có thay đổi trong quá trình lưu hành trang thiết bị y tế; (5) Trang thiết bị y tế được đưa vào mặt hàng quản lý giá theo quy định của luật giá.

Theo Baomoi.com

Hà Nội rà soát và tiếp tục triển khai việc đăng tải thông tin đồ án quy hoạch

UBND Thành phố Hà Nội vừa có văn bản số 11762 về việc đăng tải thông tin hồ sơ đồ án quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị lên Cổng thông tin điện tử…

Theo đó, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Dương Đức Tuấn giao Sở Quy hoạch – Kiến trúc chủ trì, rà soát, tiếp tục triển khai thực hiện đăng tải thông tin hồ sơ đồ án quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị theo yêu cầu của Bộ Xây dựng tại Văn bản số 4363/BXD-QHKT ngày 25/10/2021; báo cáo kết quả thực hiện về UBND thành phố trong tháng 11/2021.

Được biết, sau khi Bộ Xây dựng có văn bản trên thì đến nay, cơ bản các địa phương đã thực hiện theo quy định. Tuy nhiên vẫn còn một số nơi chưa đăng tải hoặc với số lượng rất hạn chế lên cổng thông tin điện tử tên miền www.quyhoach.xaydung.gov.vn.

Cụ thể, toàn quốc có 53 tỉnh, thành phố đã tiến hành đăng tải với tổng số 1.087 hồ sơ đồ án quy hoạch. Trong đó, tháng 10/2021, TP Hà Nội đã đăng tải 63 đồ án quy hoạch xây dựng. Tuy nhiên có một số địa phương chưa thực hiện như: Tuyên Quang, Hòa Bình, Phú Thọ, Hải Dương, Hà Nam, Bình Thuận, Gia Lai, Hậu Giang, Sóc Trăng… Và nhiều địa phương đăng tải với số lượng hạn chế chỉ 1 đồ án là An Giang, Khánh Hòa, Bắc Kạn, Bến Tre, Cao Bằng, Nghệ An, Sơn La… Do đó, Bộ Xây dựng đề nghị phải tăng cường chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tiếp tục thực hiện công tác trên.

Bộ Xây dựng cho biết, qua theo dõi và tổng hợp phản ánh của các cơ quan chức năng, các Hiệp hội, các cơ quan truyền thông báo chí về tình hình thị trường bất động sản thời gian vừa qua, tại một số địa phương đã, đang xuất hiện tình trạng một số nhà đầu tư, người môi giới bất động sản lợi dụng các thông tin về quy hoạch, việc ban hành bảng giá đất mới, việc sáp nhập thành lập, nâng cấp đơn vị hành chính, nâng cấp hệ thống hạ tầng và việc triển khai các dự án lớn tại các địa phương… để tung tin đồn thổi, mua đi bán lại bất động sản, lôi kéo người dân tham gia theo tâm lý đám đông vào các giao dịch bất động sản, gây nhiễu loạn thông tin nhằm đẩy giá bất động sản lên cao để trục lợi.

Vì vậy, các địa phương cần tổ chức công bố công khai thông tin về quy hoạch, tiến độ triển khai các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án bất động sản, đặc biệt là các dự án lớn, và việc sáp nhập thành lập, nâng cấp đơn vị hành chính… để minh bạch thông tin, ngăn chặn hiện tượng tung tin đồn thổi, đầu cơ nhằm đẩy giá để trục lợi bất hợp pháp…

Theo Baomoi.com

Dừng toàn bộ việc kiểm soát người ra vào Hà Nội

Các chốt kiểm soát do liên ngành đảm trách tại cửa ngõ Hà Nội đã dừng kiểm tra người và phương tiện lưu thông qua.

Ban chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 TP Hà Nội cho biết tại các vị trí chốt trực ra vào TP (21 chốt) lực lượng CSGT chỉ duy trì đảm bảo trật tự an toàn giao thông, xử lý các tình huống phát sinh, không tiến hành kiểm tra người và phương tiện lưu thông qua chốt trực.

Các chốt kiểm soát do liên ngành đảm trách tại cửa ngõ Hà Nội dừng kiểm tra người và phương tiện lưu thông qua 

Riêng chốt số 8 (Trạm thu phí cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) đã được rút. Các vị trí chốt trực còn lại tiếp tục duy trì lực lượng phân luồng, hướng dẫn, bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng cũng vừa ký chỉ thị số 8-CT/TU của Ban thường vụ Thành ủy, yêu cầu các cấp chính quyền địa phương phải bảo đảm hoạt động giao thông vận tải, đồng thời hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân di chuyển. Người hoàn thành cách ly tập trung phải được di chuyển thuận lợi về nơi cư trú, lưu trú, làm việc để phục vụ khôi phục và phát triển sản xuất.

Theo Baomoi.com

Bảy thương nhân trúng đấu giá 97.000 tấn đường nhập khẩu

Trong Phiên đấu giá hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường năm 2021, có 7 thương nhân đã trúng đấu giá được quyền sử dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường với tổng khối lượng trúng đấu giá là 97.000 tấn.

Tổng số đường trong hạn ngạch thuế quan nhập khẩu năm 2021 được đưa ra đấu giá là 108.000 tấn

Hội đồng đấu giá cho hay đã nhận được 14 bộ hồ sơ của các thương nhân, trong đó có 11 bộ hồ sơ hợp lệ được tham gia đấu giá, 3 bộ hồ sơ không hợp lệ.

Tổng số đường trong hạn ngạch thuế quan nhập khẩu năm 2021 được đưa ra đấu giá là 108.000 tấn; trong đó, đường thô là 76.000 tấn; đường tinh luyện là 32.000 tấn.

Phiên đấu giá đã được tổ chức đúng trình tự, đúng qui định của pháp luật, công khai, minh bạch, công bằng, dưới sự chứng kiến, giám sát của các bên liên quan và các cơ quan thông tấn báo chí.

Kết quả đấu giá cho thấy, có 2 thương nhân trúng đấu giá được quyền sử dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường tinh luyện năm 2021, với tổng khối lượng trúng đấu giá là 21.000 tấn; có 5 thương nhân trúng đấu giá được quyền sử dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường thô năm 2021, với tổng khối lượng trúng đấu giá là 76.000 tấn (đạt 100% khối lượng đưa ra đấu giá).

Việc đấu giá thí điểm hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường đã được thực hiện kể từ năm 2016 đến nay, được dư luận xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, các đại biểu Quốc hội đánh giá cao bởi tính công khai, minh bạch, tránh được cơ chế xin cho nhiều rủi ro, góp phần kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng cho các doanh nghiệp.

Theo Baomoi.com

Xem xét điều chỉnh tăng giờ làm thêm, không quá 300 giờ/năm

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang tổng hợp ý kiến đề xuất cho phép điều chỉnh tăng thời gian làm thêm giờ/tháng với một số ngành nghề, lĩnh vực, song không quá 300 giờ/năm…

Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung hôm 26/9 cho biết, cơ quan này đang tiến hành tổng hợp ý kiến với đề xuất cho phép điều chỉnh tăng thời gian làm thêm giờ/tháng với một số ngành nghề lĩnh vực.

Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, hiện Bộ đang tổng hợp ý kiến của đối tượng tác động, nhất là các hiệp hội, doanh nghiệp để từ đó nghiên cứu, đề xuất theo hướng xem xét, xử lý cá biệt, chỉ nên áp dụng những lĩnh vực, ngành nghề, thực sự cần thiết trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, không áp dụng trên phạm vi tất cả các ngành nghề, lĩnh vực và phạm vi cả nước.

Tuy nhiên, do vấn đề này thuộc thẩm quyền của Quốc hội, do vậy cần phải báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Việc điều chỉnh tăng thời gian làm thêm giờ/tháng cũng sẽ không vượt quá 300 giờ/năm.

Liên quan đến vấn đề này, trước đó, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng cho rằng, hiện nay nhiều doanh nghiệp nằm trong vùng bị phong tỏa, cách ly phải cho người lao động nghỉ việc, giãn việc.

Khi doanh nghiệp mở cửa trở lại thì áp lực giao hàng rất lớn, phải bố trí làm ngoài giờ, tuy nhiên tại Điều 107 Bộ luật Lao động quy định thời giờ làm thêm không được phép quá 40 giờ trong 1 tháng.

Vì vậy, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đề xuất Nhà nước cho phép doanh nghiệp, sau thời gian phong tỏa được bố trí thời gian làm thêm quá quy định nêu trên để giải quyết các đơn hàng tồn đọng. Doanh nghiệp vẫn sẽ bù trừ các tháng để đảm bảo không quá 300 giờ/năm theo quy định.

Hiện nay, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu như: phải được sự đồng ý của người lao động; bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày.

Trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 40 giờ trong 1 tháng. Đồng thời, bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 1 năm.

Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 1 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước.

Bên cạnh đó là các trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời.

Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất. Các trường hợp khác sẽ do Chính phủ quy định.

Cũng nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, Bộ này vừa có Tờ trình gửi Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68 (gói 26.000 tỷ). Hướng sửa đổi là tiếp tục đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết, bổ sung một số nhóm đối tượng thụ hưởng.

Đáng chú ý là việc sửa đổi 2 chính sách liên quan đến người sử dụng lao động gồm: lược bỏ điều kiện quyết toán thuế và những vướng mắc liên quan đến chính sách cho vay trả lương cho người lao động, phục hồi sản xuất; đơn giản hóa điều kiện, thủ tục đối với chính sách hỗ trợ đào tạo từ quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nhanh nhất.

Theo Baomoi.com

Chấm dứt làm dự án nhà ở kiểu ‘nửa nạc, nửa mỡ’

Khi người thuộc diện tái định cư và diện được mua nhà ở xã hội còn chưa được thụ hưởng không gian sống từ dự án thì hoạt động chào bán đất nền của dự án này diễn ra ồ ạt ngay tại dự án và trên các trang mạng xã hội từ nhiều năm nay…

Từ đề xuất của UBND tỉnh Đồng Nai, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 5/2014, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép tỉnh Đồng Nai được chuyển mục đích sử dụng 76,5 ha đất trồng lúa để thực hiện Dự án khu dân cư xã Phước Tân và xã An Hòa, thuộc TP Biên Hòa.

Năm 2015, UBND tỉnh Đồng Nai cấp phép quy hoạch, quyết định duyệt quy hoạch xây dựng chi tiết tỉ lệ 1/500 với khu dân cư và tái định cư tại xã Phước Tân, diện tích hơn 47,79 ha; quy mô dân số từ 8.000-9.500 người và giao cho Công ty CP phát triển hạ tầng An Hưng Phát làm chủ đầu tư.

Khi giao dự án cho doanh nghiệp, tỉnh Đồng Nai cũng yêu cầu 3 tháng chủ đầu tư phải báo cáo tiến độ 1 lần, nhưng đến nay, nhà ở tái định cư, nhà ở xã hội (NOXH) trong dự án vẫn chưa có; hạ tầng kỹ thuật của dự án vẫn dở dang, hàng chục ha đất bị bỏ hoang hóa gây lãng phí không nhỏ.

Chính vì vậy Dự án khu dân cư và tái định cư tại xã Phước Tân cũng là một trong những dự án được Thanh tra Chính phủ thanh tra về các nội dung liên quan đến công tác quản lý đất đai tại tỉnh Đồng Nai.

Dự án khu dân cư và tái định cư tại xã Phước Tân được UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt quy hoạch gồm 248 nhà liền kế phục vụ tái định cư và 704 căn hộ chung cư là NOXH. Ngoài ra còn có 1.208 nhà liên kế, biệt thự và 983 căn hộ chung cư thương mại cũng như đất dành cho trường học, cây xanh, giao thông và hạ tầng kỹ thuật…

Dự án khu dân cư phải hy sinh diện tích đất lúa “khủng” như vậy nên trong văn bản chỉ đạo các đơn vị trực thuộc vào ngày 6/11/2015, Chủ tịch UBND TP Biên Hòa đã yêu cầu phải khẳng định rõ “Đây là dự án phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng…”.

Nhưng sau 7 năm triển khai, nhà liên kế phục vụ tái định cư và chung cư NOXH vẫn chưa thấy đâu; hạ tầng kỹ thuật như hệ thống giao thông, thoát nước… của dự án mới thực hiện được khoảng một nửa; hạ tầng công cộng, hạ tầng xã hội như trường học, công viên vẫn hầu như chưa có gì.

Đến thời điểm này, dự án vẫn chỉ là nơi hoang vắng, đất đai để cỏ dại mọc um tùm khi số lượng nhà cửa được xây cất mới chỉ có khoảng 40 căn. Trong khi đó, nhiều căn nhà đã được xây dựng tại đây đều treo biển là văn phòng của các công ty địa ốc nhằm môi giới, mua đi, bán lại đất nền từ chính dự án.

Việc thu hồi đất cũng xảy ra bất cập đã khiến hơn trăm hộ dân ở đây bức xúc ký đơn tập thể khiếu nại. Còn theo UBND xã Phước Tân, việc thu hồi đất được thực hiện với 181 hộ dân và 1 tổ chức là UBND xã Phước Tân. Trong số 130 hộ thường trú tại địa phương đã 51 hộ sống từ trước năm 1975 sau đó tách hộ cho con cái và 79 hộ mua đất sinh sống ổn định tại đây sau năm 1975.

Làm dự án phát triển nhà ở mới ngay trên khu dân cư cũ, lâu đời nên ấp Đồng của xã Phước Tân đã bị “thổi bay” hoàn toàn, kéo theo hàng trăm hộ dân phải hy sinh lợi ích và chịu cảnh xáo trộn cuộc sống.

Đã vậy, khi người dân thuộc diện tái định cư hoặc được mua chung cư là NOXH còn chưa được hưởng lợi, thì với “mác” công ích, dự án này còn được cho phép thu hồi gần 2,5 ha đất công là đất kênh rạch, suối và đất giao thông để giao cho chủ đầu tư mà không phải thông qua việc đấu giá. Hiện một phần không nhỏ diện tích đất công này đã được san lấp chuyển thành nền đất thương mại đem bán.

Đến nay chủ đầu tư đã hoàn thành được khoảng 700 nền đất và đã bán phần lớn số lượng đất nền kinh doanh này. Trong khi đó, số nền đất được sử dụng vào mục đích tái định cư khá ít.

Khi người thuộc diện tái định cư và diện được mua NOXH còn chưa được thụ hưởng không gian sống từ dự án khu đô thị hiện đại thì hoạt động chào bán đất nền của dự án này diễn ra ồ ạt ngay tại dự án và trên các trang mạng xã hội từ nhiều năm nay…

Đây không phải dự án phát triển nhà ở duy nhất của Đồng Nai được làm theo kiểu “nửa nạc, nửa mỡ” như vậy. Do đó, tỉnh Đồng Nai cần đẩy nhanh tiến độ với dự án này để tránh lãng phí đất đai và chấm dứt hẳn việc cho làm dự án kiểu này.

Theo Baomoi.com

Điều gì xảy ra khi GDP Việt Nam vượt mốc 500 tỷ USD vào cuối năm nay?

Nếu GDP vượt mốc 500 tỷ USD vào cuối năm nay như các kênh thông tin dự đoán, nếu vượt qua được đại dịch thì + duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện tại thì:

1. Nền kinh tế Việt Nam sẽ vượt chính thức vượt Thái Lan vào năm 2022 hoặc muộn nhất là 2023. Đó là một bước tiến thần kỳ nếu biết rằng vào 10 năm trước, người ta dự đoán phải đến năm 2045, Việt Nam mới cân bằng được với Thái Lan về quy mô nền kinh tế.

2. Nếu vượt mốc 500 tỷ USD vào cuối năm nay, Việt Nam sẽ vượt qua
Iran: 495 tỷ
Áo: 481 tỷ
Israel: 400 tỷ
Đan Mạch: 364 tỷ

Và tiệm cận Aghentina với 515 tỷ USD, Bỉ 553 tỷ.

3. GDP đầu người sẽ chính thức vượt qua Indonesia, đứng hàng thứ 5 Đông Nam Á. Sau Singapore, Thái Lan, Brunei, Malaysia.

4. Chính thức lọt vào danh sách 30 nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, có thể tiệm cận G20.

5. Chính thức vượt sâu Philippines về kinh tế về mọi tiêu chí, như tổng GDP, GDP đầu người, PPP…. Trước đây 10 năm, GDP Việt Nam chỉ bằng 1/2 so với Philippines.

6. Với GDP đạt 500 tỷ USD, khả năng PPP sẽ thay đổi, dự đoán mục tiêu sẽ là 1500 tỷ USD theo PPP, đứng thứ 25 toàn cầu.

7. Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng hiện tại, Việt Nam có thể VƯỢT QUA ĐÀI LOAN, leo lên vị trí top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2030 – 2033.

 

Xử lý ô nhiễm sông, hồ tại Hà Nội: Giải pháp từ điều chỉnh quy hoạch

Thực trạng ô nhiễm nước thải khiến các con sông chảy trên địa bàn Hà Nội trở thành những dòng sông ‘chết’, không chỉ gây mất mỹ quan đô thị mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của người dân từ nhiều năm nay.

Các chuyên gia quy hoạch đô thị cho rằng, Hà Nội đang triển khai điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung, hứa hẹn sẽ tạo nên những đột phá về quy hoạch hạ tầng đô thị, trong đó có thu gom, xử lý nước thải nhằm hồi sinh lại các dòng sông.

Nan giải ô nhiễm sông, hồ
Nét đặc trưng địa lý của Hà Nội là TP sông, hồ. Trong suốt thế kỷ XX, sông, hồ Hà Nội không chỉ là lá phổi xanh, tạo cảnh quan cho TP mà còn là nơi người dân có thể thả bè rau muống, sẵn cá tôm, cung cấp nguồn thức ăn chính cho các hộ dân hai bờ, trẻ em có thể bơi lội. KTS Trần Huy Ánh (Ủy viên Thường vụ Hội KTS Hà Nội) cho biết, vào những năm 80 – 90 của thế kỷ trước, do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, rất nhiều hồ, ao bị san lấp để lấy đất xây nhà.

Hoạt động xử lý ô nhiễm nguồn nước trên sông Tô Lịch.

Cùng với đó, thời gian này, việc thay “xí hai ngăn” bằng các bể “bán tự hoại”, thực chất là hóa lỏng nước thải trộn lẫn nước mưa đổ tự do vào cống, dồn vào các hồ, dẫn đổ vào sông Tô Lịch, bơm ra sông Hồng. Kết quả là sông, hồ Hà Nội ô nhiễm, sông Tô Lịch, Kim Ngưu, sông Lừ, Sét trở thành cống lộ thiên nước đen ngòm, bốc mùi hôi thối vòng quanh TP.
Để giải cứu sông, hồ, TP Hà Nội đã vay hàng trăm triệu USD vốn ODA cho dự án thoát nước làm cống mới, trạm bơm, nạo vét bùn, lu lèn chặt và kè bê tông toàn bộ sông hồ nội thành. Tuy nhiên, cách làm này cũng đã gây ra những hệ lụy. Điển hình, năm 2003, Hà Nội cho nạo vét bùn, rồi trộn đất sét với cát vàng, lu lèn chặt đáy hồ Thuyền Quang và kè xi măng xung quanh, biến hồ sinh thái tự nhiên thành đĩa bê tông đựng nước kết quả là những năm sau đó cá chết nhiều. TP xoay xở nhiều cách như bơm sục khí, bè thủy sinh, rắc hóa chất Redoxy 3C, thả thiên nga… nhưng cá vẫn chết nhiều và thường xuyên hơn.
Bên cạnh đó, TP xây 4 nhà máy xử lý nước thải (XLNT) bên cạnh các hồ nhưng kết quả là sông, hồ vẫn ô nhiễm. Nguyên nhân là Nhà máy XLNT Hồ Tây xây xong không có nước thải, trong khi các cống nước thải vẫn đổ thẳng xuống hồ, Nhà máy XLNT Trúc Bạch cũng tương tự. Nhà máy XLNT Bảy Mẫu, Kim Liên xử lý xong đổ vào sông Lừ, Sét, Kim Ngưu trộn lẫn nước bẩn chảy vòng quanh TP rồi mới đổ vào Nhà máy Yên Sở xử lý, bơm nước sạch ra sông Hồng.
Cơ hội để cứu những dòng sông
Theo Quy hoạch thoát nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn 2050, khu vực trung tâm TP cần đầu tư xây dựng 13 nhà máy XLNT, tổng công suất khoảng 905.000m3/ngày đêm. Hiện, TP đã xây dựng xong 5 nhà máy XLNT gồm: Yên Sở, Trúc Bạch, Kim Liên, Hồ Tây và Hồ Bảy Mẫu với tổng công suất 234.300m3/ngày đêm (chiếm tỷ lệ 26% lượng nước thải khu vực trung tâm).

Hà Nội đang kỳ vọng Nhà máy XLNT Yên Xá có công suất xử lý 270.000m3/ngày đêm sẽ “giải cứu” sông Tô Lịch nhưng hai đường ống ngầm đôi bờ sông dài 10km, nhận nước thải từ 300 cửa cống chỉ đón 150.000m3/ngày đêm, tức là mới đạt nửa công suất. Do vậy, ngay cả sau khi Nhà máy Yên Xá hoạt động, tăng thêm 150.000m3, thì tổng lượng nước thải được xử lý là 384.300m3, chưa tới 40% lượng nước thải toàn TP, còn lại 60% nước thải chưa xử lý phát tán ra môi trường hàng ngày.
Theo KTS Trần Huy Ánh, không có phép màu nào có thể làm sạch sông hồ Hà Nội “sau một đêm”. Nhưng có thể tính toán làm sạch sông hồ ngay từ trạm bơm nước sông Hồng đổ vào đầu nguồn Nhuệ, sông Tô lịch và Hồ Tây. Giải pháp này có thể kích hoạt đồng thời với việc Bộ Xây dựng khởi động Dự án quy hoạch xây dựng trụ sở 12 bộ, ngành, quy mô 35ha tại Tây Hồ Tây.

Với đặc điểm khu vực gần sông Hồng và Hồ Tây, diện tích được quy hoạch, khoảng 20% sẽ dành xây trụ sở, còn lại 80% để khai thác đa năng trong đó nên xây dựng một vùng chuyển hóa nước sinh học và nâng cấp môi trường cảnh quan cả vùng.

Khu Tây Hồ Tây là cơ hội tốt để Hà Nội có thể hình thành “bộ lọc sinh thái” để tạo ra hệ tuần hoàn tự nhiên, tái tạo nước sạch, không khí sạch… từng bước phục hồi đa dạng sinh học từ đầu nguồn, sau đó lan tỏa toàn TP.

Theo Baomoi.com

Chưa có cơ sở pháp luật để quản lý tiền công đức

Dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội đang gây tranh cãi trong dư luận. Từ góc nhìn pháp lý, luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch Công ty TAT Law firm (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho rằng, dự thảo Thông tư chưa có cơ sở vững chắc về luật pháp.

Trước đó, ngày 28/4/2021, Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 4269/BTC-HCSN về việc lấy ý kiến tham gia đóng góp của các Bộ, ngành Trung ương và UBND các tỉnh… về việc quản lý, thu chi tài chính cho công tác tổ chức lễ hội và tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội. Tuy nhiên, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam là đơn vị chịu sự tác động trực tiếp nhưng lại không được lấy ý kiến.

Trao đổi với phóng viên, Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết: “Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nhận được nhiều ý kiến gửi về. Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có văn bản góp ý về dự thảo”.

Cụ thể tại văn bản số 157/HĐTS-VP1 của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định ở dự thảo Thông tư của Bộ Tài chính.

Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã viện dẫn các điều khoản trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Bộ luật Dân sự năm 2015 để khẳng định tổ chức tôn giáo có quyền “nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tự nguyện tặng cho và nó là tài sản của giáo hội và nhà tu hành là thành viên của giáo hội”. Giáo hội cũng dẫn điều 53 Hiến pháp năm 2013 để khẳng định tiền công đức không phải là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý…

Từ đó, Giáo hội cho rằng dự thảo Thông tư về quản lý thu chi tiền công đức “không hợp hiến, không hợp pháp, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, không tôn trọng niềm tin, giáo lý và lễ nghi tôn giáo, không bảo đảm quyền sở hữu riêng của tổ chức tôn giáo và nhà tu hành, không bảo đảm sự bình đẳng của các tôn giáo trước pháp luật và không khả thi trong thực tiễn”.

Liên quan đến vấn đề này, Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law firm (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho rằng, Thông tư (dự thảo) là chưa có cơ sở vững chắc về luật pháp.

Luật sư Trương Anh Tú nhìn nhận: Theo quy định của nghị định về hướng dẫn các hoạt động lễ hội ở Việt Nam thì đối tượng áp dụng là những lễ hội mang tính truyền thống và tính dân gian cũng như các lễ hội về ngành nghề, một số lễ hội du nhập từ nước ngoài về. Tuy nhiên, những lễ hội mang tính tôn giáo thì chưa được định nghĩa và đưa vào phạm vi áp dụng về hoạt động lễ hội ở Việt Nam, hay nói cách khác là khái niệm và nội hàm cũng như phạm vi của hoạt động lễ hội thì không rõ về hoạt động lễ hội trong tôn giáo. Chính vì vậy, thông tư hướng dẫn về hoạt động thu chi tài trợ cho các hoạt động về lễ hội của tôn giáo, theo thông tư (dự thảo) là chưa có cơ sở vững chắc về pháp luật.

Đành rằng trong bối cảnh hiện nay, các hoạt động cung tiến, tài trợ, đóng góp cho các hoạt động lễ hội, đặc biệt là tại các cơ sở tôn giáo diễn ra với số lượng người, và số vật chất cung tiến là rất lớn. Tuy nhiên, quá trình sử dụng như thế nào, sử dụng vào mục đích gì, có tư lợi hay lợi ích nhóm hay không thì xã hội đang đặt ra một câu hỏi lớn cho các hoạt động tôn giáo.

Từ đó dẫn đến nhu cầu bức thiết, là cần kiểm soát các hoạt động này để đi vào trật tự, để đảm bảo là số tiền được sử dụng đúng mục đích của người cung tiến. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát thế nào, lại là một bài toán khó khăn cho những nhà quản lý văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo.

Ngoài ra, luật sư Trương Anh Tú cho rằng: Tại dự thảo của Thông tư, cũng nêu ra rất rõ là số tiền công đức này hoặc các tiền tài trợ sẽ không được xác định vào các nguồn doanh thu của Nhà nước, và Nhà nước sẽ dành toàn bộ bộ cái này cho cơ sở tôn giáo chi vào các hoạt động tôn giáo của mình. Nên về bản chất là Nhà nước chỉ muốn minh bạch thông tin mà không có ý là can thiệp và các hoạt động lễ hội của tôn giáo.

Tuy nhiên, dự thảo của Thông tư cũng đã đưa ra những yêu cầu tương đối chặt chẽ. Chẳng hạn như phải nộp tiền vào tài khoản của ngân hàng, phải nộp tiền vào kho bạc để kiểm soát chi tiêu, phải báo cáo chi tiết các khoản chi phí… Điều này e rằng sẽ có một mặt gây khó khăn cho hoạt động lễ hội, vì tính chất lễ hội và tôn giáo đôi khi nó lại không phù hợp với cả khoản chi theo luật định của Bộ Tài chính, dẫn đến là khó được quyết toán số khoản chi thực tế.

Bên cạnh đó, theo luật sư Trương Anh Tú thì các hoạt động lễ hội trong tôn giáo, chúng ta cũng cần lưu ý đến đặc thù truyền thống lịch sử của tôn giáo, cũng như thông lệ quốc tế: Theo tôi được biết thì các khoản kinh phí của các tôn giáo được tiếp nhận từ các tín đồ ở trên thế giới thì hầu hết là Nhà nước không kiểm soát các khoản thu chi này, mà để các giáo hội tự quản. Cho nên, sẽ rất khó khăn cho các cơ quan nhà nước một mặt là vừa đảm bảo tính công khai minh bạch của các khoản chi tiêu lễ hội, một mặt lại thỏa mãn những cái đặc thù của tôn giáo trong tình huống này.

Dự thảo cũng giải quyết một vấn đề rất nhức nhối hiện nay, là những doanh nghiệp “sân sau” đứng ra xây dựng các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng, sau đó họ đứng phía sau để quản lý tất cả các nguồn thu chi này, theo mô hình của một doanh nghiệp. Thì với thông tư này giải quyết được một phần các hoạt động thu chi của doanh nghiệp phía sau cơ sở tôn giáo trong hoạt động lễ hội. Tuy nhiên, thì tổng thể các nguồn thu của các cơ sở tôn giáo mà có bóng dáng doanh nghiệp đứng phía sau, thì chưa giải quyết được trong thông tư này.

Theo Baomoi.com

Khởi tố, bắt giam 5 đối tượng phá rừng

Khởi tố, bắt giam 5 đối tượng phá rừng
Ngày 18/6, Công an tỉnh Thanh Hóa cho biết vừa ra quyết định khởi tố bị can đối với 5 đối tượng để điều tra về hành vi chặt, phá rừng.

Theo đó, cơ quan Công an đã khởi tố bị can, ra lệnh tạm giam 5 đối tượng: Cầm Bá Huế (SN 1966), trú tại xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân; Cầm Bá Hoán (SN 1971), Cầm Bá Thủ (SN 1970), trú tại xã Xuân Chinh, huyện Thường Xuân; Vi Văn Tuấn (SN 1978), Vi Văn Chinh (SN 1983), trú tại xã Thanh Quân, huyện Như Xuân để tiếp tục điều tra làm rõ về hành vi “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”.

Theo nội dung vụ án, từ năm 2019, Cầm Bá Huế mua lại của người dân mảnh đất rừng có diện tích 99.680m2 tại khoảnh 4, tiểu khu 555 (thuộc địa phận thôn Tú Ạc, xã Xuân Chinh, huyện Thường Xuân). Sau khi phát hiện khu vực này có trữ lượng lớn đất hiếm có thể bán với giá trị cao, thay vì chăm sóc bảo vệ, Huế đã tìm cách thuê người lên chặt cây gỗ trên diện tích rừng mình mua nhằm làm nghèo kiệt tài nguyên rừng để thực hiện ý đồ chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng.

5 đối tượng bị bắt tại cơ quan điều tra

Từ giữa tháng 12/2020, Huế thuê Cầm Bá Hoán, Cầm Bá Thủ, Vi Văn Tuấn, Vi Văn Chinh vào cắt cây trên rừng cho mình với giá 15 triệu đồng. Để đối phó với lực lượng chức năng, các đối tượng này chỉ được chặt phá cây trong khoảng 2 giờ đồng hồ và vào chiều tối, khi cắt cây phải có người cảnh giới quanh khu vực. Mặc dù biết khu vực trên là rừng cấm khai thác, nhưng các đối tượng trên vẫn thực hiện hành vi của mình. Ngày 27/12/2020, các đối tượng này đã dùng cưa xăng cắt hạ 152 cây gỗ rừng có đường kính từ 15 đến 30cm.

Công an huyện Thường Xuân đã phối hợp với Hạt Kiểm lâm Thường Xuân và chính quyền xã Xuân Chinh thu giữ 3 cưa xăng, gần 26m3 gỗ tròn mà các đối tượng cưa xong để tại hiện trường và nhiều tang vật khác có liên quan.

Số lượng gỗ đã khai thác được cơ quan chức năng phát hiện, thu giữ

Trong vụ án này là khi phạm tội, Cầm Bá Huế đang là Chủ tịch MTTQ, Đại biểu HĐND xã Vạn Xuân. Là đảng viên và giữ chức vụ quan trọng ở xã Vạn Xuân, đáng lẽ Cầm Bá Huế phải gương mẫu chấp hành nghiêm và tích cực tuyên truyền cho Nhân dân về chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật về công tác bảo vệ rừng và lâm sản. Nhưng Huế đã đi ngược lại với những gì người cán bộ, đảng viên phải làm để câu kết, chỉ đạo các đối tượng khác phá rừng nhằm trục lợi cá nhân.

Trung tá Vi Văn Hưng, Phó trưởng Công an huyện Thường Xuân cho biết: Đây là vụ án vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản hết sức nghiêm trọng. Đối tượng cầm đầu hiểu rõ quy định của pháp luật và tìm mọi cách để đối phó với cơ quan chức năng. Các cơ quan chức năng đã phối hợp chặt chẽ, trong một thời gian dài thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các đối tượng và truy tố các đối tượng theo đúng quy định của pháp luật.

Theo baogiaothong.vn

‘Ma trận’ hợp động

‘Ma trận’ hợp động

Trên các khu đất đang xin tách thửa, phân lô do cá nhân sở hữu, nhiều công ty môi giới đứng ra tổ chức giao dịch mua bán, thông qua các dạng hợp đồng như “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng (QSD) đất”, “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nền đất dự án”, “Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng QSD đất”…. Đó là “ma trận” giao dịch đẩy khách hàng tới nhiều rủi ro.

Sau loạt 3 bài “Dự án ma trên đất nông nghiệp”, Báo Đại Đoàn Kết tiếp tục nhận được rất nhiều phản ánh của người dân về việc họ bị các công ty môi giới bất động sản lừa đảo, thông qua các dạng hợp đồng giao dịch trên đất đang xin tách thửa, phân lô nhưng được quảng cáo như dự án bất động sản.

Bà Nguyễn Thị Lai (ngụ chung cư Bộ Công an, TP Thủ Đức) tố ông Nguyễn Đăng Thành cùng CTCP Đầu tư phát triển bất động sản Phú Thành (Công ty Phú Thành) lừa đảo khi yêu cầu nộp số tiền gần 2 tỷ đồng theo “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nền đất dự án Khu dân cư đường số 1, phường Long Trường, quận 9”, nhưng thực tế đây không phải “dự án” mà là đất cá nhân đang xin tách thửa, phân lô hoàn toàn chưa được chính quyền phê duyệt.

Tương tự, Công ty cổ phần An Việt VN (gọi là An Việt Real) cũng thông qua dạng “Hợp đồng đặt cọc nền đất tại khu dân cư An Việt ven sông – phường Trường Thạnh, Quận 9” huy động hàng tỷ đồng của người dân, nhưng thực tế là đất cá nhân của ông Huỳnh Trọng Nghĩa.

Nhìn nhận hàng loạt vụ tiêu cực xảy ra trong việc vi phạm sử dụng đất trên địa bàn TP HCM, Luật sư Trần Đức Phượng, Đoàn luật sư TP HCM cho rằng, với những trường hợp là đất phân lô, hộ lẻ chưa được phê duyệt chuyển mục đích sử dụng đất, chưa được cấp sổ cho từng nền riêng lẻ thì khách hàng giao dịch đặt cọc, chuyển nhượng đều bị vô hiệu, không có giá trị. Việc quảng cáo “dự án” nhưng không có thực, hay việc công ty môi giới đứng ra đóng dấu với tư cách làm chứng, chỉ là “làm màu” để lôi kéo khách hàng tin tưởng.

Đồng quan điểm, luật sư Đỗ Thanh Lâm, Đoàn Luật sư TP HCM cho rằng, các dạng hợp đồng như “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, “Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng nền đất dự án”, “Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng  đất”… đều là những dạng hợp đồng không có trong các điều, khoản của Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản.

Theo luật sư Đỗ Thanh Lâm, đất cá nhân đang xin tách thửa, phân lô không lập dự án, nên điều kiện giao dịch hoàn toàn tuân theo quy định của Luật Đất đai.

Cụ thể, tại Điều 168 và Điều 188 Luật Đất đai thì người sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (cho lô đất thực hiện giao dịch).

Trong khi đó tại thời điểm bán cho người dân, các khu đất vẫn còn là đất nông nghiệp đang xin chủ trương tách thửa, phân lô thì đất bán cho người dân chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó theo quy định, thì chưa đủ điều kiện chuyển nhượng, chưa được ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Ngoài ra theo quy định đối với đất của cá nhân, hộ gia đình thì hợp đồng chuyển nhượng phải được công chứng, chứng thực. Như vậy các giao dịch nêu trên vi phạm về điều kiện giao dịch lẫn hình thức của giao dịch.

“Đối với “hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” thì Bộ Luật Dân sự có quy định. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy để được đặt cọc thì bên bán cũng phải có quyền đối với lô đất và lô (thửa) đất cũng phải đã hình thành và đủ điều kiện chuyển nhượng. Do đó ký đặt cọc để đảm bảo việc chuyển nhượng cho một thửa đất chưa được hình thành cũng chưa đủ điều kiện. Hơn nữa xét về mặt bản chất và nội dung trong hợp đồng thì đây cũng chính là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó cũng chưa có căn cứ và điều kiện để ký loại hợp đồng này”, luật sư Đỗ Thanh Lâm đánh giá.

Trên thực tế khi đã ký kết vào các dạng hợp đồng giao dịch trên đất đang xin phân lô tách thửa, người dân luôn ở thế “nắm dao đằng lưỡi”. Các trường hợp giao dịch ở đất phân lô gắn mác dự án xảy ra ở TP Thủ Đức, huyện Củ Chi… được Báo Đại Đoàn kết phản ánh thời gian qua, người dân đều khốn đốn đi đòi quyền lợi. Tới nay, nhiều người môi giới biến mất, chủ đất thì tìm đủ lý do chây ì thực hiện hợp đồng, người dân khiếu kiện ra toà, tố giác tới các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Tại TP HCM, Cơ quan Cảnh sát điều tra thời gian qua đã công bố kết luận điều tra rất nhiều vụ án liên quan đến giao dịch mua bán lại các “dự án ma”. Và điểm chung là mặc dù chưa hoàn tất thủ tục thanh toán, thủ tục chuyển nhượng các thửa đất hoặc đã sở hữu được một số thửa đất, các khu đất chưa được cơ quan chức năng chấp giấy chứng nhận sử dụng đất;

Khu đất công nghiệp chưa được phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500, không đủ điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo dạng phân, bán nền dưới dạng thổ cư nhưng chủ đất đã thuê công ty môi giới lập vẽ, thiết kế, phân chia các khu đất thành nhiều nền đất dưới dạng thổ cư. Từ đó, tổ chức quảng cáo gian dối để dẫn dắt, giới thiệu người dân tới ký kết hợp đồng đặt cọc, hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng nền đất dưới dạng thổ cư…

Giữa “ma trận hợp đồng” giao dịch đối với đất đang xin tách thửa phân lô, người dân cần tìm hiểu kỹ về pháp lý của khu đất và tư cách của cá nhân, công ty đứng ra giao dịch. Trước khi giao dịch cần yêu cầu bên bán đưa ra giấy tờ pháp lý khu đất như 1/500, giấy phép xây dựng …để tránh bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Theo daidoanket.vn

‘Dịch vào KCN là một bài toán hoàn toàn khác’

‘Dịch vào KCN là một bài toán hoàn toàn khác’

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng khi dịch bệnh xuất hiện trong các khu công nghiệp (KCN) đòi hỏi những biện pháp phòng, chống rất khác trước áp lực rất lớn trong việc lấy mẫu, xét nghiệm, truy vết, khoanh vùng, cách ly cho hàng chục nghìn công nhân, điều trị hàng nghìn bệnh nhân…

Chiều 11/6, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19 đã chủ trì cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo với một số địa phương có nhiều khu, cụm công nghiệp về công tác phòng, chống dịch bệnh.

Quyết liệt ngăn dịch lây vào KCN

Giám đốc Sở Y tế TPHCM Nguyễn Tấn Bỉnh cho biết từ ngày 27/5 đến nay, thành phố đã lấy khoảng 482.000 mẫu, trong đó 6.448 mẫu F1, hơn 25.000 mẫu F2, gần 430.000 mẫu xét nghiệm sàng lọc mở rộng. Do tăng cường xét nghiệm sàng lọc, truy vết nên 4 ca nhiễm là công nhân làm việc trong KCN đã được phát hiện kịp thời, chặn được chuỗi lây nhiễm. Đồng thời, TPHCM  tăng cường giám sát có trọng điểm, khi cần thiết tiếp tục mở rộng xét nghiệm ra toàn xí nghiệp, phân xưởng, thậm chí cả KCN nếu nhận thấy có nguy cơ cao; duy trì sàng lọc theo tỷ lệ 20% công nhân của các nhà máy, xí nghiệp trong KCN.

Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức đánh giá tình hình hiện nay ở TPHCM vẫn có nguy cơ rất cao dịch lây sang các tỉnh lân cận và vào các KCN. Vì vậy, các lực lượng của thành phố tiếp tục tăng cường xét nghiệm sàng lọc, tầm soát trong cộng đồng, các KCN, tập trung vào những khu vực có nguy cơ cao.

Tại cuộc họp, lãnh đạo tỉnh Đồng Nai cho biết để chuẩn bị tình huống có dịch trong cộng đồng, đặc biệt là KCN, địa phương đang tập trung chỉ đạo để nâng công suất xét nghiệm từ 30.000 mẫu gộp lên 50.000 mẫu gộp/ngày; chuẩn bị các khu cách ly ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố. Lực lượng phòng chống dịch của Đồng Nai đang ở trạng thái tập trung cao độ, các tổ COVID cộng đồng hoạt động rất tích cực.

Đại diện tỉnh Bình Dương cho biết, với 29 KCN, 12 cụm CN đang hoạt động, gần 1,2 triệu công nhân, địa phương đã yêu cầu từng công ty phải xây dựng kịch bản phòng, chống dịch, ứng phó khi có ca nhiễm. Tỉnh đã chuẩn bị 10.000 chỗ cách ly tập trung, năng lực điều trị khoảng 600 bệnh nhân; công suất xét nghiệm khoảng 6.000 mẫu đơn/ngày.

Hiện nay người lao động từ TPHCM lên Bình Dương làm việc rất đông, vì vậy, tỉnh tiếp tục tập trung kiểm soát y tế đối với người từ vùng dịch, đặc biệt ở TPHCM; kiểm tra các nhà máy, xí nghiệp, tăng cường xét nghiệm sàng lọc định kỳ cho công nhân.

Các tỉnh Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An đã báo cáo về công tác phòng chống dịch, nhất là chuẩn bị cho tình huống lây nhiễm trong khu, cụm công nghiệp. Trong đó, các địa phương đang tập trung nâng cao năng lực xét nghiệm; có phương án cách ly cụ thể, tính đến cả tình huống cách ly ngay trong DN; kiểm soát chặt chẽ công nhân làm việc tại những địa phương khác và ngược lại từ địa phương khác đến; xét nghiệm sàng lọc định kỳ 20% đến 25% công nhân;…

Ngoài ra, các tỉnh đang tăng cường giám sát dịch bệnh thường xuyên tại các khu vực tập trung đông công nhân ở trọ, xét nghiệm tầm soát tại khu vực có nguy cơ cao; giám sát người có triệu chứng khi đến các phòng khám, nhà thuốc.

Năng lực xét nghiệm vô cùng quan trọng

Tại cuộc họp, lãnh đạo các địa phương đã nghe những bài học kinh nghiệm được đúc rút từ thực tế chống dịch tại Bắc Ninh, Bắc Giang thời gian qua.

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Hương Giang chia sẻ trong quá xử lý ca nhiễm trong KCN phải thực hiện rất quyết liệt các biện pháp truy vết, khoanh vùng trong thời gian ngắn nhất, trong đó năng lực lấy mẫu, xét nghiệm đóng vai trò quan trọng để bắt kịp tốc độ lây lan của dịch.

Trước yêu cầu đặt ra là phải phát hiện rất sớm các ca nhiễm trong khu, cụm công nghiệp, Bắc Ninh thực hiện rất nghiêm công tác kiểm soát, xét nghiệm sàng lọc định kỳ khoảng 20% công nhân, thậm chí tăng cường tại những nhà máy, phân xưởng có môi trường làm việc kín, mật độ đông.

Đáng chú ý, cùng với công tác chống dịch, Bắc Ninh đã tiến hành khôi phục lại hoạt động sản xuất cho khoảng 500 DN, và khi có 1 DN ghi nhận ca nhiễm, tỉnh đã khoanh vùng, xử lý nhanh chóng, hiệu quả, không để ảnh hưởng đến hoạt động của các DN khác.

Từ tâm dịch Bắc Giang, Chủ tịch UBND tỉnh Lê Ánh Dương đã chia sẻ kinh nghiệm phòng, chống dịch bùng phát trong các KCN.

Có 4 nguồn lây chính trong KCN ở Bắc Giang là môi trường làm việc khép kín, sử dụng điều hoà, đặc biệt là các DN sản xuất linh kiện điện tử; lây tại nhà ăn, khu vệ sinh chung; trên xe ô tô đưa đón; tại chỗ trọ của công nhân.

“Nắm được cách thức lây lan của dịch sẽ hỗ trợ rất tốt cho công tác phòng, chống dịch, tuy nhiên, chống dịch trong KCN không thể khoán trắng cho DN mà phải đưa tổ chống dịch gồm đại diện chính quyền địa phương, y tế cơ sở trực tiếp hỗ trợ DN”, ông Lê Ánh Dương trao đổi.

Từ kinh nghiệm thực tiễn, lãnh đạo tỉnh Bắc Giang nhấn mạnh các địa phương nhất định phải chuẩn bị kỹ cho phương án 4 tại chỗ, thì mới không bị động khi xảy ra dịch bệnh trong khu, cụm CN mà phải cách ly lập tức hàng nghìn người, xét nghiệm hàng chục nghìn mẫu mỗi ngày, điều trị hàng nghìn ca bệnh….

“Bài học của Bắc Giang do năng lực xét nghiệm ban đầu hạn chế nên không bắt kịp được dịch trong những ngày đầu tiên. Tuy nhiên, ngay cả khi nhiều đơn vị về hỗ trợ thì những ngày còn rất lúng túng do thiếu sự điều phối, chỉ huy thống nhất. Do vậy các tỉnh phải chuẩn bị kỹ năng lực xét nghiệm nếu không sẽ không thể bắt kịp dịch, khống chế, kiểm soát trong thời gian nhanh nhất”, ông Lê Ánh Dương nhìn nhận.

Nếu có ca nhiễm phải phát hiện trong 3 ngày đầu tiên

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh qua hơn 1 tháng triển khai quyết liệt các biện pháp, tình hình dịch cơ bản được kiểm soát trên toàn quốc, mặc dù số ca nhiễm, số địa phương có dịch nhiều hơn trước.

Theo Phó Thủ tướng, chúng ta đã có kinh nghiệm tốt trong phòng, chống dịch tại cộng đồng. Vì vậy, dù chưa gặp phải tình huống phức tạp như chuỗi lây nhiễm của nhóm truyền giáo Hội thánh Phục hưng (TPHCM) nhưng lực lượng phòng, chống dịch vẫn “đuổi bắt kịp chuỗi lây nhiễm”.

Vấn đề đáng lo ngại nhất là các địa phương chưa có kinh nghiệm chống dịch trong KCN, nhất là tại các DN sản xuất điện tử, môi trường làm việc kín, sử dụng điều hoà, rất đông công nhân.

Đơn cử trong khoanh vùng, cách ly khi phát hiện ca nhiễm thì ngoài KCN, nhà máy thì còn có các khu nhà trọ dành cho công nhân có mật độ rất đậm đặc.

Số lượng công nhân cần lấy mẫu, xét nghiệm để truy vết rất lớn, với yêu cầu trả kết qua trong ngày gây áp lực cực lớn lên lực lượng lấy mẫu, xét nghiệm. Những ngày đầu dịch bùng phát ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương có tình trạng lấy mẫu xong phải mấy ngày sau mới có kết quả, khiến lãnh đạo địa phương không nắm được đầy đủ tình hình dịch để có phương án điều hành sát thực tế.

“Dịch vào KCN là một bài toán hoàn toàn khác”, Phó Thủ tướng nói và nhấn mạnh bên cạnh việc chuẩn bị các phương án ứng phó thì cố gắng để dịch không lây vào KCN, nếu có ca nhiễm phải phấn đấu phát hiện ngay trong vòng 3 ngày đầu tiên.

Muốn vậy, các địa phương phải thực hiện khai báo y tế bắt buộc, cập nhật tình hình sức khoẻ của tất cả người làm việc trong KCN. Những người có lịch trình đi lại, tiếp xúc có nguy cơ thì phải được xét nghiệm sàng lọc.

Dẫn lại bài học kinh nghiệm của tỉnh Bắc Giang sử dụng nơi ở của công nhân để cách ly tại chỗ, không kịp thời giãn, giảm mật độ đã gây lây nhiễm chéo rất nhiều, Phó Thủ tướng lưu ý, bên cạnh khu cách ly tập trung, các địa phương phải chuẩn bị phương án cách ly tại chỗ với mật độ giảm thấp hơn bình thường.

Đối với công tác xét nghiệm, Phó Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu có sự thống nhất chỉ huy, điều phối công tác lấy mẫu, xét nghiệm, kết hợp các phương pháp xét nghiệm cho những nhóm đối tượng khác nhau, nhất là trong tình huống có nhiều đơn vị về hỗ trợ, chi viện. “Riêng mũi xét nghiệm phải có một lãnh đạo tỉnh chỉ huy, điều phối nếu có những đơn vị từ nơi khác chi viện”, Phó Thủ tướng nói.

Về khoanh vùng, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng không có một mô hình chuẩn cho khoanh vùng cách ly, phong toả mà phụ thuộc vào bản lĩnh, trí tuệ, sự linh hoạt, sáng tạo của lãnh đạo địa phương. Phó Thủ tướng lấy ví dụ: Nếu chỉ nhìn số ca lây nhiễm ở Bắc Giang thì ngay từ đầu phải giãn cách xã hội toàn tỉnh theo Chỉ thị 16/CT-TTg nhưng thực tế số ca nhiễm chỉ tập trung ở những thôn, xóm xung quanh các KCN.

“Giãn cách, khoanh vùng đến đâu, phải quyết rất sớm nhưng bên trong phải làm rất chặt, tránh tình trạng khoanh rộng nhưng bên trong lỏng, để dịch dây dưa, kéo dài. Trong tình huống ban đầu chưa thể xác định được chỗ hẹp thì tạm thời khoanh rộng nhưng sau đó khẩn cấp điều tra dịch tễ để khoanh gọn lại”, Phó Thủ tướng nói.

Đánh giá được nguy cơ, cảnh báo kịp thời, không để bị động

Để vừa chống dịch, vừa bảo đảm sản xuất an toàn, Phó Thủ tướng đã nhắc lại bài học kinh nghiệm của Bắc Ninh, Bắc Giang “đối với các DN nhất định phải an toàn mới được hoạt động, sản xuất”. Vì vậy, những địa phương có KCN, dù chưa có dịch cũng phải kiểm tra và kiên quyết dừng hoạt động những DN chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phòng, chống dịch.

Đồng thời, qua quá trình kiểm tra, phải yêu cầu DN phải cập nhật đầy đủ thông tin lên hệ thống an toàn COVID (antoancovid.vn), từ đó địa phương sẽ nắm được tình hình phân bố khu vực sản xuất của DN, để sau này khi ghi nhận, cập nhật các ca F0, F1, F2 thì dựa trên các mô hình tính toán, chuyên gia có thể dự đoán được đường lây, những khu vực có nguy cơ. Từ đó giúp địa phương triển khai kịp thời các biện pháp phòng chống sát thực tế, đuổi kịp và đón đầu dịch.

“Bằng việc thiết lập hệ thống thông tin, điều hành, chúng ta đã nắm được tình hình, đánh giá nguy cơ dịch bệnh đến từng xã nhưng dữ liệu cập nhật chưa đầy đủ, mới đến F0, F1. Các đồng chí phải cập nhật nhanh nhất đến cả F2, F3 thì chúng ta sẽ có một hệ thống đánh giá nguy cơ, cảnh báo trước, không để bị động khi dịch bệnh xảy ra”, Phó Thủ tướng lưu ý thêm.

Các địa phương phải yêu cầu DN trong KCN có phương thức tổ chức lại sản xuất các ca, kíp, khu sản xuất gắn với bố trí chỗ ở cho công nhân, trong tình huống có ca nhiễm thì chỉ khoanh vùng, cách ly được ngay nhóm công nhân cùng ca, kíp, ở cùng khu vực, không lan sang bộ phận khác, DN vẫn tiếp tục duy trì được hoạt động. Đây là công việc rất công phu, đòi hỏi DN phải thực sự “xắn tay” vào làm cùng chính quyền địa phương.

Nhằm chủ động trong tình huống có nhiều ca nhiễm ở KCN, Phó Thủ tướng yêu cầu các địa phương khảo sát trước các địa điểm có thể thành lập các bệnh viện dã chiến, tận dụng tối đa cơ sở vật chất hiện có, chuẩn bị phương án thiết lập các đơn vị điều trị tích cực.

Tiêm vaccine phòng COVID-19 cho toàn bộ công nhân trong KCN

Trả lời kiến nghị các địa phương mong muốn sớm có vaccine phòng COVID-19 tiêm cho công nhân trong KCN, Phó Thủ tướng cho biết khó khăn lớn nhất là hiện nay là các nguồn vaccine đều không có cam kết về tiến độ giao vaccine.

“Chúng ta không thiếu kinh phí nhưng khó nhất là làm sao có vaccine về sớm nhất, nhiều nhất có thể. Cố gắng trong tháng 7/2021 sẽ tiêm hết vaccine phòng COVID-19 cho công nhân trong các nhà máy, KCN có nguy cơ cao. Hết tháng 8/2021 sẽ tiêm xong cho toàn bộ công nhân trong các KCN trên cả nước”, Phó Thủ tướng nói.

Ghi nhận tất cả nỗ lực phòng, chống dịch của các địa phương thời gian qua, Phó Thủ tướng mong muốn các địa phương sẽ kiểm soát tốt, không để dịch bệnh lây lan trong KCN như ở Bắc Ninh, Bắc Giang thời gian qua.

Theo Baochinhphu.vn