Câu hỏi :
Chị C.V ở Vũng Tàu có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:
Bà L ở Vũng Tàu đang có yêu cầu:
(1) Huỷ kết hôn trái pháp luật T-H2;
Vụ việc được tóm tắt như sau:
Bà L và ông T chung sống như vợ chồng với nhau từ năm 1975 không đăng kí kết hôn. Giữa hai người có 01 người con chung là C, sinh năm 1976. Sau khi sinh con chung được một thời gian thì ông T không sống chung với mẹ con bà L nữa mà đi nơi khác sinh sống, nhưng thi thoảng vẫn qua lại và không làm thủ tục ly hôn tại tòa.
Năm 1978, ông T sống như vợ chồng với bà H1 và không đăng kí kết hôn, có 02 người con chung là anh C1 và chị C2. Năm 1995 ông T và bà H1 đã làm thủ tục ly hôn tại TAND huyện X.
Năm 1988, ông T chung sống như vợ chồng với bà B và không đăng kí kết hôn, có 02 người con chung là C3 và C4. Năm 1996 ông T với bà B không chung sống với nhau nữa, không làm tủ tục ly hôn tại Tòa.
Năm 2005 ông T kết hôn với bà H2, có đăng ký kết hôn tại xã Tân Y, Q, tỉnh P và có 02 con chung là cháu C5 và C6.
Đến tháng 10/2016 ông T chết.
Cuối năm 2020 bà L có đơn yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật giữa ông T và bà H2 và công nhận giữa bà L và ông T vẫn tồn tại hôn nhân hợp pháp.
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
- Cơ sở pháp lý
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 23 tháng 12 năm 2000 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 do Quốc hội ban hành ngày 09 tháng 06 năm 2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Nội dung
Tòa án có cơ sở để không chấp nhận yêu cầu của bà L.
- Pháp luật áp dụng với quan hệ hôn nhân được xác lập trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực
Theo quy định tại khoản 1 Điều 131 Luật số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 06 năm 2014 do Quốc hội ban hành về hôn nhân và gia đình:
“Điều 131. Điều khoản chuyển tiếp
- Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết…”
- Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật
Theo quy định tại điểm a Mục 2 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 23 tháng 12 năm 2000 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì:
“2. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 16)
Khi giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật, Toà án cần chú ý các điểm sau đây:
- Theo quy định tại điểm 3 Điều 8 thì kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn, nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định; cụ thể là việc đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 12 thực hiện và việc tổ chức đăng ký kết hôn theo đúng nghi thức quy định tại Điều 14, nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9 như đã hướng dẫn tại mục 1 Nghị quyết này…”
Do yêu cầu hủy việc kết hôn giữa ông T và bà H2, quan hệ hôn nhân là hợp pháp, được pháp luật công nhận nên phải có cơ sở để chứng minh rằng ông T và bà H2 có vi phạm điều kiện kết hôn.
- Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật số 22/2000/QH10 do Quốc hội ban hành ngày 09 tháng 06 năm 2000 về hôn nhân và gia đình thì:
“Điều 9. Điều kiện kết hôn
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
- Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.”
“Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
- Người đang có vợ hoặc có chồng;
- Người mất năng lực hành vi dân sự;
- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Giữa những người cùng giới tính.”
Để xác định ông T không vi phạm điều kiện kết hôn khi kết hôn bà H2 năm 2005, cần áp dụng Điểm b, Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 do Quốc hội ban hành ngày 09 tháng 06 năm 2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình:
“3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
…
- b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;…”
Như vậy, tại thời điểm 2005 (sau 01/01/2003), ông T không có quan hệ vợ chồng với ai được pháp luật bảo hộ. Việc ông T kết hộ bà H2 là hợp pháp, được pháp luật công nhận (có đăng ký kết hôn và ko vi phạm điều kiện kết hôn).
Vậy, đối với yêu cầu huỷ kết hôn T-H2, có cơ sở để Tòa án bác yêu cầu.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com