Hàng trăm bánh heroin xếp kín mặt bàn vụ nổ súng bắt ma túy ở Nghệ An

Phòng Cảnh sát ma tuý (Công an Nghệ An) hôm nay (12/1) cho biết, vừa phát hiện đường dây mua bán ma túy với số lượng rất lớn từ Lào qua biên giới huyện Kỳ Sơn.

Cơ quan điều tra xác định, đây là đường dây ma tuý xuyên quốc gia, mỗi chuyến hàng thường vận chuyển lượng ma tuý khủng lên đến hàng trăm kg.

Hàng trăm bánh heroin xếp kín mặt bàn vụ nổ súng bắt ma túy ở Nghệ An
Các đối tượng và tang vật trong chuyên án.

Những kẻ cầm đầu đã huy động một lực lượng lớn tham gia với trang bị đầy đủ vũ khí nóng, phân công vai trò, nhiệm vụ chặt chẽ từng mắt xích và dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để qua mặt lực lượng chức năng.

Cơ quan chức năng xác định, các đối tượng chính trong đường dây gồm: Vừ A Thắng (SN 2001), Giàng A Minh (SN 1999) Lỳ A Pó (SN 2000), Mùa A Vừ (SN 1988), đều trú tại bản Ka Hâu, xã Na Ư, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Các đối tượng này thường xuyên có mặt tại khu vực biên giới gần cửa khẩu Nậm Cắn (huyện Kỳ Sơn) để nhận ma túy từ Lào, rồi vận chuyển ra các tỉnh phía Bắc tiêu thụ.

Khoảng 4h sáng 8/12, trinh sát 1 phát hiện các đối tượng di chuyển trên ô tô bán tải theo hướng cửa khẩu Nậm Cắn.

Hàng trăm bánh heroin xếp kín mặt bàn vụ nổ súng bắt ma túy ở Nghệ An
 

Hàng trăm bánh heroin xếp kín mặt bàn vụ nổ súng bắt ma túy ở Nghệ An
Số lượng lớn heroin và ma túy đá.

Khoảng 20 phút sau, các đối tượng quay trở lại, lướt qua khu vực giám sát của tổ công tác, hướng về khu vực thị trấn Mường Xén với tốc độ cao.

Nhận định các đối tượng đã nhận “hàng”, tổ công tác nhanh chóng rời vị trí bám sát, đồng thời giữ liên lạc với các tổ khác trên tuyến QL 7A. Khi xe về qua khu vực thị trấn Thạch Giám (huyện Tương Dương), các tổ cơ động và tổ đánh bắt nhận lệnh từ Ban chuyên án để chờ thời cơ phá án.

Khoảng 5h sáng, khi chiếc xe chở 4 đối tượng nghi vấn trong đường dây ma tuý chạy đến khu vực xã Tam Đình (huyện Tương Dương) các mũi công tác đồng loạt bất ngờ chặn đứng chiếc xe.

Bị trấn áp bất ngờ, 4 đối tượng cố thủ trong xe buộc lực lượng chức năng ra lệnh bắn chỉ thiên để trấn áp, buộc các đối tượng phải đầu hàng.

Khám xét tại chỗ, công an thu giữ 8 bao tải trong đó có 150 bánh heroin và 126kg ma tuý dạng đá.

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng bước đầu khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Đối tượng Lỳ A Pó được xác định là kẻ cầm đầu đường dây, Vừ A Thắng lái xe và các đối tượng còn lại làm nhiệm vụ cảnh giới trong mỗi lần thực hiện giao dịch.

Hiện chuyên án vẫn đang được tiếp tục đấu tranh, mở rộng.

Nguồn : vietnamnet.vn

Nhận tiền trợ cấp 1 lần khi sinh con có phải đóng thuế thu nhập cá nhân hay không?

Câu hỏi :

Anh H.K.M ở Phú Thọ có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Luật sư cho hỏi, em được nhận tiền trợ cấp 1 lần khi vợ sinh đôi cụ thể là được 5.960.000 đồng. Vậy tiền này có tính để đóng thuế thu nhập cá nhân không ạ?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  1. Thông tư 111/2013/TT-BTC Hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định 65/2013/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày 15 tháng 08 năm 2013;
  2. Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 sửa đổi, bổ sung năm 2012 và năm 2014;

     II. Nội dung

Khoản tiền trợ cấp 1 lần khi vợ sinh con không phải đóng thuế thu nhập cá nhân.

  1. Các khoản thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân

Theo quy định tại điểm b.6 Khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC Hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định 65/2013/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành thì:

“Điều 2. Các khoản thu nhập chịu thuế

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân và Điều 3 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP, các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân bao gồm:

  1. Thu nhập từ tiền lương, tiền công

Thu nhập từ tiền lương, tiền công là thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động, bao gồm:

     b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp sau:

     b.6) Trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, mức hưởng chế độ thai sản, mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thất nghiệp và các khoản trợ cấp khác theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội…”

Như vậy, theo quy định này thì khoản tiền trợ cấp 1 lần khi vợ sinh con không phải đóng thuế thu nhập cá nhân.

Vậy, khoản tiền trợ cấp 1 lần khi vợ sinh con không phải đóng thuế thu nhập cá nhân.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các ngày nghỉ lễ theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2019;

     II. Nội dung

  1. Các ngày nghỉ lễ, tết theo quy định

Theo quy định tại khoản 1 Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019 thì:

“Điều 112. Nghỉ lễ, tết

  1. Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong những ngày lễ, tết sau đây:

     a) Tết Dương lịch: 01 ngày (ngày 01 tháng 01 dương lịch);

     b) Tết Âm lịch: 05 ngày;

     c) Ngày Chiến thắng: 01 ngày (ngày 30 tháng 4 dương lịch);

     d) Ngày Quốc tế lao động: 01 ngày (ngày 01 tháng 5 dương lịch);

     đ) Quốc khánh: 02 ngày (ngày 02 tháng 9 dương lịch và 01 ngày liền kề trước hoặc sau);

     e) Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương: 01 ngày (ngày 10 tháng 3 âm lịch)…”

     2. Trường hợp người lao động là người nước ngoài

Theo quy định tại khoản 2 Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019 thì:

“Điều 112. Nghỉ lễ, tết

  1. Lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ngoài các ngày nghỉ theo quy định tại khoản 1 Điều này còn được nghỉ thêm 01 ngày Tết cổ truyền dân tộc và 01 ngày Quốc khánh của nước họ…”

Như vậy, ngoài những ngày nghỉ theo quy định tại khoản 1 Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019 thì người lao động là người nước ngoài còn được nghỉ thêm 01 ngày Tết cổ truyền và 01 ngày Quốc khánh nước họ.

  1. Một số dịp nghỉ có ngày nghỉ không cố định

Theo quy định tại khoản 3 Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019 thì:

“Điều 112. Nghỉ lễ, tết

  1. Hằng năm, căn cứ vào điều kiện thực tế, Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể ngày nghỉ quy định tại điểm b và điểm đ khoản 1 Điều này.”

Tại khoản 1 Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019 thì điểm b và đ là:

“Điều 112. Nghỉ lễ, tết

  1. Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong những ngày lễ, tết sau đây:

     b) Tết Âm lịch: 05 ngày;

     đ) Quốc khánh: 02 ngày (ngày 02 tháng 9 dương lịch và 01 ngày liền kề trước hoặc sau);

…”

Như vậy, ngày nghỉ của Tết Âm lịch và Quốc khánh hàng năm sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể ngày nghỉ căn cứ vào điều kiện thực tế.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Bộ luật Lao động năm 2019 đã chính thức có hiệu lực. Nghị định 145/2020/NĐ-Chính phủ là nghị định của Chính phủ hướng dẫn Bộ luật Lao động năm 2019 trong đó có nội dung hướng dẫn cách xác định thời gian làm việc để tính ngày nghỉ phép năm.

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2019;
  • Nghị định 145/2020/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động do Chính phủ ban hành ngày 14 tháng 12 năm 2020;

     II. Nội dung

Thời gian được xác định là định thời gian làm việc để tính số ngày nghỉ phép năm của người lao động được quy định tại Nghị định 145/2020/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động 2019.

Theo quy định tại Điều 65 Nghị định 145/2020/NĐ-CP thì:

“Điều 65. Thời gian được coi là thời gian làm việc để tính số ngày nghỉ hằng năm của người lao động

  1. Thời gian học nghề, tập nghề theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật Lao động nếu sau khi hết thời gian học nghề, tập nghề mà người lao động làm việc cho người sử dụng lao động.
  2. Thời gian thử việc nếu người lao động tiếp tục làm việc cho người sử dụng lao động sau khi hết thời gian thử việc.
  3. Thời gian nghỉ việc riêng có hưởng lương theo khoản 1 Điều 115 của Bộ luật Lao động.
  4. Thời gian nghỉ việc không hưởng lương nếu được người sử dụng lao động đồng ý nhưng cộng dồn không quá 01 tháng trong một năm.
  5. Thời gian nghỉ do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng cộng dồn không quá 6 tháng.
  6. Thời gian nghỉ do ốm đau nhưng cộng dồn không quá 02 tháng trong một năm.
  7. Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
  8. Thời gian thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà được tính là thời gian làm việc theo quy định của pháp luật.
  9. Thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động.
  10. Thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc nhưng sau đó được kết luận là không vi phạm hoặc không bị xử lý kỷ luật lao động.”

Như vậy các khoảng thời gian sau được coi là thời gian làm việc để tính số ngày nghỉ hằng năm của người lao động gồm:

-Thời gian học nghề, tập nghề theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật Lao động nếu sau khi hết thời gian học nghề, tập nghề mà người lao động làm việc cho người sử dụng lao động (hiện hành chỉ quy định thời gian học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động theo cam kết trong hợp đồng học nghề, tập nghề).

– Thời gian thử việc nếu người lao động tiếp tục làm việc cho người sử dụng lao động sau khi hết thời gian thử việc.

– Thời gian nghỉ việc riêng có hưởng lương theo khoản 1 Điều 115 của Bộ luật Lao động.

– Thời gian nghỉ việc không hưởng lương nếu được người sử dụng lao động đồng ý nhưng cộng dồn không quá 01 tháng trong một năm.

– Thời gian nghỉ do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng cộng dồn không quá 6 tháng.

– Thời gian nghỉ do ốm đau nhưng cộng dồn không quá 02 tháng trong một năm.

– Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội.

– Thời gian thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà được tính là thời gian làm việc theo quy định của pháp luật (hiện hành quy định thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn).

– Thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động.

– Thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc nhưng sau đó được kết luận là không vi phạm hoặc không bị xử lý kỷ luật lao động (hiện hành quy định thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 114 Nghị định này thì:

“Điều 114. Hiệu lực thi hành

  1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2021…”

Như vậy, từ 01/02/2021 khi nghị định này có hiệu lực thi hành thì các khoảng thời gian trên được coi là thời gian làm việc để tính số ngày nghỉ hằng năm của người lao động.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Vào thời đại mở như hiện nay thì biên giới quốc gia gần như được xóa nhòa, khi mà nguồn nhân lực chất lượng cao của các quốc gia đều có thể làm việc ở quốc gia khác. Bài viết này sẽ làm sáng tỏ các điều kiện để người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2019;

     II. Nội dung

  1. Điều kiện để người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Điều kiện để người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam được quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như sau:

“Điều 151. Điều kiện người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

  1. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là người có quốc tịch nước ngoài và phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

     a) Đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

     b) Có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề, kinh nghiệm làm việc; có đủ sức khỏe theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế;

     c) Không phải là người đang trong thời gian chấp hành hình phạt hoặc chưa được xóa án tích hoặc đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc pháp luật Việt Nam;

     d) Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp, trừ trường hợp quy định tại Điều 154 của Bộ luật này…”

     2. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động

Theo quy định tại Điều 154 Bộ luật Lao động năm 2019 thì các trường hợp người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động bao gồm:

“Điều 154. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động

  1. Là chủ sở hữu hoặc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có giá trị góp vốn theo quy định của Chính phủ.
  2. Là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần có giá trị góp vốn theo quy định của Chính phủ.
  3. Là Trưởng văn phòng đại diện, dự án hoặc chịu trách nhiệm chính về hoạt động của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam.
  4. Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ.
  5. Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được.
  6. Là luật sư nước ngoài đã được cấp Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy định của Luật Luật sư.
  7. Trường hợp theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
  8. Người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
  9. Trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.”

     3. Điều kiện tuyển dụng, sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Về điều kiện tuyển dụng, sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam thì Điều 152 Bộ luật Lao động năm 2019 có quy định như sau:

“Điều 152. Điều kiện tuyển dụng, sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

  1. Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu chỉ được tuyển dụng người lao động nước ngoài vào làm vị trí công việc quản lý, điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
  2. Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân trước khi tuyển dụng người lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam phải giải trình nhu cầu sử dụng lao động và được sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  3. Nhà thầu trước khi tuyển và sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải kê khai cụ thể các vị trí công việc, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kinh nghiệm làm việc, thời gian làm việc cần sử dụng lao động nước ngoài để thực hiện gói thầu và được sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Ông Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh sắp hầu tòa vụ Ethanol Phú Thọ

Liên quan đến vụ Ethanol Phú Thọ, TAND TP Hà Nội vừa có quyết định đưa ông Đinh La Thăng và đồng phạm ra xét xử vào ngày 22/1 tới.

Dự kiến, phiên tòa diễn ra trong 10 ngày.

Ngoài ông Đinh La Thăng (cựu Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dầu khí Việt Nam- PVN) còn có các bị cáo sau phải hầu tòa:

Trịnh Xuân Thanh (cựu Chủ tịch HĐQT, TGĐ Tổng Công ty cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam – PVC), Vũ Thanh Hà (cựu TGĐ Công ty cổ phần Hóa dầu và Nhiên liệu sinh học Dầu khí – PVB), Trần Thị Bình (cựu Phó TGĐ PVN), Phạm Xuân Diệu (cựu TGĐ PVC), Nguyễn Ngọc Dũng (cựu Phó TGĐ PVC);

Đỗ Văn Quang (cựu Trưởng Ban Kinh tế kế hoạch, PVC), Nguyễn Xuân Thủy (cựu Phó Trưởng Phòng đầu tư dự án, PVB), Khương Anh Tuấn (cựu Phó trưởng Phòng Thương mại, PVB), Lê Thanh Thái (cựu Trưởng Phòng Kinh doanh, PVB), Hoàng Đình Tâm (cựu Kế toán trưởng PVB), Đỗ Văn Hồng (cựu Chủ tịch HĐQT, kiêm TGĐ Công ty cổ phần đầu tư và xây lắp Dầu khí Kinh Bắc – PVC Kinh Bắc).

 

Ông Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh sắp hầu tòa vụ Ethanol Phú Thọ
Ông Đinh La Thăng

 

Bị cáo Trịnh Xuân Thanh bị đưa ra xét xử tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

Bị cáo Đỗ Văn Hồng bị đưa ra xét xử tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

Các bị cáo còn lại bị truy tố về tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.

Theo cáo trạng, với vai trò Chủ tịch HĐQT PVN, Trưởng Ban chỉ đạo triển khai các dự án nhiên liệu sinh học, ông Đinh La Thăng biết PVC không đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu TK05 dự án Ethanol Phú Thọ.

Nhưng với mục đích chỉ định thầu cho PVC do Trịnh Xuân Thanh là Chủ tịch HĐQT thực hiện (thông qua Liên danh nhà thầu PVC/Alfa Laval/Delta- T), ông Thăng đã ban hành chủ trương, chủ trì các cuộc họp để kết luận chỉ đạo quyết liệt PVB, PVC hoàn tất thủ tục chỉ định thầu cho Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T thực hiện gói thầu TK05 dự án Ethanol Phú Thọ trái quy định.

Quá trình thực hiện, do Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T không đủ năng lực nên dự án Ethanol Phú Thọ liên tục bị chậm tiến độ. PVC sau đó cũng có báo cáo thừa nhận Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T không đủ năng lực để thực hiện dự án.

Tháng 3/2013, PVC đã đơn phương dừng thi công dự án và chưa có hạng mục nào hoàn thành. PVC đưa ra lý do việc dừng dự án vì đơn vị gặp nhiều khó khăn về tài chính, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm quản lý và kết nối các giao diện về công nghệ…

Việc này dẫn đến hậu quả thiệt hại cho PVB hơn 543 tỷ đồng. Bị xác định giữ vai trò chính trong vụ án, cáo trạng cho rằng, ông Đinh La Thăng cùng 10 bị can khác có trách nhiệm liên đới bồi thường hơn 543 tỷ đồng do hành vi phạm tội gây ra.

Nguồn : vietnamnet.vn

Diễn biến mới vụ đường dây sinh viên đẻ thuê giá tới 750 triệu đồng

Hoàng Huệ Tâm vừa bị khởi tố để điều tra về đường dây mang thai hộ với giá hàng trăm triệu đồng/lần.

Công an quận Long Biên, Hà Nội hôm nay (8/1) cho biết, đơn vị đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam Hoàng Huệ Tâm (SN 1994, trú tại xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên) để điều tra về các hành vi Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đường dây mang thai hộ giá “khủng”

Theo cơ quan điều tra, nạn nhân trong vụ việc là vợ chồng anh Nguyễn V.H. và chị Nguyễn T.N. (ở Hà Nội). Tâm đồng ý giúp vợ chồng anh H. tìm người mang thai hộ để sinh con trai.

 

Diễn biến mới vụ đường dây sinh viên đẻ thuê giá tới 750 triệu đồng
Hoàng Huệ Tâm tại cơ quan công an

 

Ngày 28/7/2018, vợ chồng anh H. ký hợp đồng với Tâm để thuê người sinh con trai với mức tiền trọn gói là 620 triệu đồng.

Sau khi nhận 100 triệu đồng, Tâm đưa vợ chồng anh H. đến gặp người phụ nữ nhận mang thai hộ tên N.T.N. (trú tại tỉnh Hòa Bình). Sau khi nhận tiền, cả Tâm và N.T.N. đều biến mất. Vợ chồng anh H. đã làm đơn trình báo sự việc đến cơ quan công an.

Ngay sau khi tiếp nhận thông tin, Đội điều tra tổng hợp, Công an quận Long Biên đã vào cuộc điều tra, thu thập lời khai của người bị hại.

Việc đấu tranh bóc gỡ đường dây của Tâm gặp nhiều khó khăn. Bởi quá trình thực hiện hành vi, Tâm sử dụng các loại giấy tờ giả như hộ khẩu, chứng minh thư, giấy đăng ký kết hôn… để hợp thức hóa việc mang thai hộ mà không bị rào cản thủ tục tại các bệnh viện.

N.T.N. khai do cần tiền tiêu xài nên đã đồng ý lời đề nghị mang thai hộ của Tâm. Tuy nhiên, khi N.T.N. đến khám tại Bệnh viện 16A (Hà Đông), phát hiện đã có thai nên không thể nhận đẻ thuê nữa.

Quá trình vận động, đến 1/11/2020, Hoàng Huệ Tâm đến Công an quận Long Biên đầu thú.

Tại cơ quan công an, Tâm khai nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt 474 triệu đồng của vợ chồng anh H.. Không tìm được người đẻ thuê nhưng Tâm vẫn muốn có tiền tiêu xài nên đã thực hiện hành vi phạm tội.

Người đẻ thuê là sinh viên

Tâm khai đã sử dụng mạng xã hội tìm kiếm thông tin khách hàng, những người hiếm muộn, muốn sinh con, đồng thời tìm các phụ nữ có nhu cầu mang thai hộ để kiếm tiền.

Những phụ nữ này chủ yếu là sinh viên, từ 18-25 tuổi ở nhiều tỉnh thành khác nhau. Tâm móc nối đôi bên và thỏa thuận giao dịch. Mỗi phi vụ Tâm hưởng lợi từ 100-200 triệu đồng. Người mang thai hộ hưởng 200-500 triệu đồng, tùy trường hợp. Sau khi thỏa thuận, Tâm đưa những người mang thai hộ đi xét nghiệm, cấy phôi thai.

 

Diễn biến mới vụ đường dây sinh viên đẻ thuê giá tới 750 triệu đồng
Tâm khai đã thực hiện trót lọt 1 vụ sinh đôi, người mang thai là sinh viên

 

Quá trình điều tra mở rộng vụ án, Tâm khai nhận đã tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại cho anh N.D.A. trú tại Hà Nội. Trong vụ án này, đối tượng đã môi giới cho N.T.L. (trú tại Nghệ An, sinh viên một trường đại học trên địa bàn Hà Nội) đẻ thuê.

Khoảng cuối năm 2018, Tâm đọc được thông tin của anh A. để lại trong nhóm tìm người mang thai hộ nên đã chủ động liên hệ. Tâm thỏa thuận về việc tìm người mang thai hộ với giá thai đơn là 650 triệu đồng, thai đôi là 750 triệu đồng.

Trong vụ này, L. mang thai đôi và đẻ cho N.D.A. 2 người con. Sau khi hợp đồng hoàn tất, N.D.A. đã trả cho Tâm số tiền theo đúng thỏa thuận là 750 triệu đồng. Số tiền trên, sau khi trừ chi phí khám, chữa bệnh và chi trả cho L. là 320 triệu đồng, Tâm được hưởng lợi là 50 triệu đồng.

Nguồn : vietnamnet.vn

Vì sao phiên xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phải hoãn?

Tại phiên tòa xét xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng và đồng phạm sáng nay (7/1), sau thời gian nghỉ hội ý, HĐXX quyết định hoãn tòa.

Sáng nay (7/1), TAND TP Hà Nội đưa cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cùng các đồng phạm ra xét xử.

 

Vì sao phiên xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phải hoãn?
Các bị cáo tại tòa

 

Phiên tòa vắng mặt các bị cáo: Nguyễn Hữu Tín (cựu Phó Chủ tịch UBND TP.HCM); Nguyễn Thanh Chương (cựu Trưởng phòng Đô thị, Văn phòng UBND TP.HCM) và Lê Văn Thanh (cựu Phó Chánh Văn phòng UBND TP.HCM).

 

Vì sao phiên xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phải hoãn?
Cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng được dìu tới tòa

 

Trước đó, luật sư của ông Tín cho biết, vì lý do sức khoẻ nên ông Tín không thể đến toà như triệu tập.

 

Vì sao phiên xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phải hoãn?
Bị cáo Vũ Huy Hoàng

 

Một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được triệu tập đến tòa cũng vắng mặt. Trong đó vắng mặt ông Phan Đăng Tuất (nguyên Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Sabeco giai đoạn 2012 – 2015), Võ Thanh Hà (nguyên Chủ tịch HĐQT, phụ trách Bộ phận quản lý vốn Nhà nước giai đoạn 2015-2018).

 

Vì sao phiên xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng phải hoãn?
Phiên tòa xét xử cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng và đồng phạm sáng 7/1.

 

Người đại diện Bộ Công Thương có mặt tại tòa là Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế. Người này được sự ủy quyền của Bộ trưởng Công Thương.

Đại diện UBND TP.HCM có mặt 3 người.

Trước việc vắng mặt một số bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, thực hành quyền công tố tại tòa, đại diện VKS đề nghị HĐXX xem xét hoãn tòa.

Một số luật sư cũng đưa ra ý kiến cho rằng, việc vắng mặt 3 bị cáo và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bị cáo nên đề nghị hoãn phiên tòa.

Một luật sư bào chữa cho bị cáo cho biết, đến ngày vụ án được đưa ra xét xử, thân chủ của ông chưa nhận được giấy triệu tập của tòa.

Sau khi hội ý, HĐXX cho rằng, sự vắng mặt của một số bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên quyết định hoãn  tòa.

Chủ toạ phiên toà yêu cầu các cơ quan tố tụng có liên quan trích xuất, tống đạt cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên phải có mặt đầy đủ trong thời gian mở lại phiên toà.

Nguồn : vietnamnet.vn

Bộ Công an thông báo về tổ chức khủng bố nguy hiểm ‘Triều đại Việt’

Bộ Công an thông tin về hoạt động khủng bố của tổ chức “Triều đại Việt” từ khi thành lập đến nay.

Bộ Công an xác định, “Triều đại Việt” là tổ chức khủng bố, do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của “Triều đại Việt”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Triều đại Việt” tổ chức; hoạt động theo chỉ đạo của “Triều đại Việt”… là phạm tội “Khủng bố”, “Tài trợ khủng bố” và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.

“Triều đại Việt” tổ chức như thế nào?

Theo Bộ Công an, tháng 1/2018 một nhóm thành viên của tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” vì bất mãn, đã tách ra thành lập tổ chức riêng mang tên “Triều đại Việt”. Tổ chức này đứng đầu là Ngô Văn Hoàng Hùng (bí danh Ngô Hùng, Nguyễn Phi Long, SN 1952, quê tại Mỹ Tho, Tiền Giang, quốc tịch Canada).

 

Bộ Công an thông báo về tổ chức khủng bố nguy hiểm 'Triều đại Việt'
Ngô Văn Hoàng Hùng, tự phong “Tổng tư lệnh Triều đại Việt”

 

Trụ sở của “Triều đại Việt” đặt tại Quebec, Canada.

Ngoài Ngô Văn Hoàng Hùng tự xưng là “Tổng tư lệnh Triều Đại Việt” thì tổ chức này có nhiều thành viên khác. Trong số đó có Trần Thanh Đình, (SN 1957, quê Nam Định, quốc tịch Đức), tự xưng là “Phó Thủ tướng”; Ngô Mạnh Cương (SN 1961 quê TP.HCM, quốc tịch Pháp) tự xưng là “Tổng cục trưởng Tổng cục đặc nhiệm”; Huỳnh Thanh Hoàng, sinh 1976, quốc tịch Mỹ, “phát ngôn viên Triều đại Việt”…

Riêng về Ngô Văn Hoàng Hùng vốn là kẻ cực đoan. Là con trưởng trong gia đình bốn anh em ở Tiền Giang, Hùng từng đi lính quân dịch B2, từng có thời gian học tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung và đi lính chế độ cũ.

Sau khi đất nước thống nhất, Hùng về làm thợ điện, thợ sửa xe đạp. Nhưng với bản chất cực đoan, Hùng từng bước móc nối với các ổ nhóm phản động hoạt động trong nước để tăng cường chống phá Cách mạng, sử dụng phương thức khủng bố vũ trang.

Tuy nhiên, các tổ chức lần lượt bị triệt phá, Hùng may mắn thoát được nhưng rồi cuối cùng sa lưới, bị tuyên án tù chung thân. Năm 1982, với chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, Hùng được giảm án từ chung thân xuống còn 20 năm. Nhưng lợi dụng sơ hở, sự đối đãi tốt, Hùng vượt ngục, vượt biên sang Canada và bị truy nã về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân…”

 

Bộ Công an thông báo về tổ chức khủng bố nguy hiểm 'Triều đại Việt'
 Quyết định truy nã của Công an TP.HCM đối với Ngô Văn Hoàng Hùng về 2 tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” và “tài trợ khủng bố”

 

Từ đó đến nay, Ngô Văn Hoàng Hùng chưa từng đặt chân về Việt Nam nhưng vẫn điên cuồng chống phá Đảng và Nhà nước bằng nhiều thủ đoạn. Trong hoạt động chỉ đạo khủng bố từ xa, cuối tháng 9/2019, Ngô Văn Hoàng Hùng tiếp tục bị cơ quan An ninh điều tra, Công an TP.HCM phát kệnh truy nã về tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” và “tài trợ khủng bố”.

Có thể nói, toàn bộ hoạt động của tổ chức khủng bố “Triều đại Việt” đều do một tay Ngô Văn Hoàng Hùng đạo diễn. Các đối tượng còn lại chỉ là những con rối, làm theo chỉ đạo của kẻ tự xưng là “Tổng tư lệnh Triều đại Việt” này.

Các thủ đoạn của “Triều đại Việt”

“Triều đại Việt” có phương thức hoạt động nguy hiểm, đó là bạo động vũ trang. Phương châm của tổ chức là “đốt sạch”, “giết sạch”, “phá sạch”, “cướp sạch”… và lấy cờ ngũ sắc làm quốc kỳ.

Ngô Văn Hoàng Hùng và các đối tượng đầu sỏ… ngồi ở nước ngoài, bí mật liên hệ, móc nối với các đối tượng trong nước để triển khai. Đối tượng chúng nhắm vào là những thanh niên lêu lổng, có nhiều tiền án tiền sự, những người bất mãn với chế độ, một số người cần tiền…

 

Bộ Công an thông báo về tổ chức khủng bố nguy hiểm 'Triều đại Việt'
“Triều đại Việt” chỉ đạo các đối tượng trong nước gây ra các vụ nổ phá hoại, trong đó có vụ nổ trụ sở Công an phường 12, quận Tân Bình vào giữa năm 2018

 

Tất nhiên ban đầu Hùng và đồng bọn dùng tiền để lôi kéo và nhồi nhét vào các đối tượng những tư tưởng cực đoan. Sau đó, chúng chỉ đạo các đối tượng trong nước tiến hành các hoạt động khủng bố phá hoại, gây bạo động, biểu tình, cướp chính quyền, lật đổ chế độ… Quá trình đó, “Triều đại Việt” gửi tiền về cho các đối tượng, chỉ đạo mua sắm vũ khí, chế tạo bom mìn, in truyền đơn, cờ và khẩu hiệu phản động.

Chúng tự lập ra các đơn vị là “quân khu” để phát triển lực lượng. Ngoài ra, chúng có ý đồ lập ra một số nhóm vũ trang hoạt động độc lập như “Trung đoàn Tây Đô”, “Biệt động quân”, “Thủy quân lục chiến”, “Cảnh sát Đại Việt”, “Không quân”, “Hải quân”… quy tụ những đối tượng cực đoan, sẵn sàng thực hiện các vụ tấn công khủng bố bất chấp hậu quả.

Song song đó, Ngô Văn Hoàng Hùng và đồng bọn còn tích cực khai thác các hoạt động chống phá trên không gian mạng. Chúng thường xuyên đăng các clip, livestream trên các mạng xã hội youtube, facebook… với nội dung xuyên tạc lịch sự; bịa đặt, nói xấu Đảng và Nhà nước, kêu gọi bạo động vũ trang, lật đổ chế độ và kêu gọi ủng hộ giấc mơ hão huyền để “Triều đại Việt” về lãnh đạo đất nước.

Vụ điển hình, thông qua mạng xã hội, Ngô Văn Hoang Hùng và các đối tượng của “Triều đại Việt” đã lôi kéo được Nguyễn Khanh (SN 1964, quê Đồng Nai), hứa phong chức Tỉnh trưởng tỉnh Đồng Nai và chu cấp tiền bạc để thực hiện các vụ nổ phá hoại. Khanh và đồng bọn trong nước làm theo chỉ đạo, thực hiện phá hoại khủng bố với dự tính gây nổ tại nhiều địa điểm là cơ quan Nhà nước, nhà riêng của các lãnh đạo, trong đó có vụ nổ thành công tại trụ sở Công an phường 12, quận Tân Bình vào chiều 20/6/2018.

Khi ổ nhóm này bị triệt phá, bắt giữ và trả giá bằng bản án thích đáng thì Ngô Văn Hoàng Hùng và các đầu sỏ của “Triều đại Việt” tiếp tục móc nối, lôi kéo để gây dựng ổ nhóm khác để từ xa chỉ đạo các hoạt động phá hoại điên cuồng.

Bộ Công an còn chỉ rõ những hoạt động khủng bố của “Triều đại Việt” trong thời gian vừa qua.

Điển hình như, tháng 8/2018, Hùng chỉ đạo nhóm “Biệt đội bóng ma” tại Thái Lan do tên Nguyễn Văn Hùng cầm đầu, ý đồ cùng 6 đối tượng khác về Campuchia, sau đó xâm nhập về các tỉnh miền Đông Nam Bộ theo đường tiểu ngạch gây nổ, sát hại lực lượng chức năng và người dân vào dịp Lễ Quốc khánh 02/9/2018 nhưng đã bị ngăn chặn.

Hay tháng 9/2018, Ngô Văn Hoàng Hùng móc nối, chỉ đạo các đối tượng Trần Văn Đoan, Điểu A Nam, Điểu Lé lôi kéo 15 đối tượng khác tại Bình Phước tìm cách thành lập “chiến khu Tây Nguyên” để chế tạo, thử nghiệm thuốc nổ, cất giấu vũ khí nhưng đã bị lực lượng chức năng của Việt Nam kịp thời phát hiện, ngăn chặn.

Đến nay, cơ quan chức năng Việt Nam đã bắt, truy tố, xét xử 17 đối tượng; ra quyết định truy nã 2 đối tượng là thành viên của tổ chức khủng bố “Triều đại Việt” về tội “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”.

Nguồn : vietnamnet.vn

Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hay không?

Câu hỏi :

Anh T.V.T ở Bắc Giang có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi xin hỏi trong vụ án dân sự đã có bản án có hiệu lực rồi, nếu cơ quan thi hành án dân sự có phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án thì họ có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

     II. Nội dung

Cơ quan thi hành án dân sự dù phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án cũng không có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

  1. Khái niệm tái thẩm dân sự

Chương XXI Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định chi tiết về thủ tục tái thẩm. Điều 351 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về tính chất của tái thẩm:

“Điều 351. Tính chất của tái thẩm

Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.”

  1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

Những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 354 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

“Điều 354. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

  1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
  2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ…”

Như vậy, theo các quy định nêu trên, cơ quan thi hành án dân sự không có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

  1. Kiến nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án

Điều 487 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định như sau:

“Điều 487. Giải quyết yêu cầu, kiến nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án

Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Tòa án có thẩm quyền phải trả lời trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị; trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 04 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị.”

Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự khi phát hiện tình tiết mới liên quan đến bản án đã có hiệu lực thì có quyền kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục tái thẩm.

Vậy, cơ quan thi hành án dân sự không có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Và cơ quan thi hành án dân sự khi phát hiện tình tiết mới liên quan đến bản án đã có hiệu lực thì có quyền kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục tái thẩm.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Các trường hợp người sử dụng lao động không được quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động với người lao động

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2012;
  • Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;

     II. Nội dung

Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2012 thì có 4 trường hợp người sử dụng lao động không được quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động với người lao động đó là:

“Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 của Bộ luật này.
  2. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý.
  3. Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này.
  4. Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”

     1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị

Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2012 thì người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp:

“Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 của Bộ luật này…”

Điểm b khoản 1 Điều 38 có đưa ra trường hợp ngoại lệ của quy định trên:

“Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

  1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

     b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;…”

  1. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý

Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2012 thì người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp:

“Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  1. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý…”

 

 

     3. Người lao động đang nghỉ đang nghỉ hưởng chế độ theo khoản 3 Điều 155 Bộ luật Lao động

Theo quy định tại khoản 3 Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2012 thì người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp:

“Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  1. Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này…”

Khoản 3 Điều 155 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định:

“Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động nữ

  1. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động…”

     4. Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội

Theo quy định tại khoản 4 Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2012 thì người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp:

“Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

  1. Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”

Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì điều kiện hưởng chế độ thai sản là:

“Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

  1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

     a) Lao động nữ mang thai;

     b) Lao động nữ sinh con;

     c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

     d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

     đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

     e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con…”

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

Câu hỏi :

Anh N.D.M ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:

Tôi là giám đốc một showroom xe oto. Do chập điện, toàn bộ showroom oto đã cháy rụi và hủi hoại toàn bộ xe oto trưng bày ở trong. Hiện tại, số lượng nhân viên mua bán xe của showroom là quá lớn mà ngân sách showroom đang cần dành để sửa chữa showroom và chỗ làm việc tạm thời cũng không đủ chỗ làm việc cho toàn bộ nhân sự, do đó showroom đang cần đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động với một số nhân sự.

Tôi xin hỏi, tôi có thể đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động vì lý do như trên không?

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Lao động năm 2012;

     II. Nội dung

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012:

“Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động

  1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:

     c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;…”

Việc thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc của showroom do anh làm giám đốc là hậu quả tất yêu do việc bị cháy do chập điện là lý do khách quan. Anh đã khắc phục bằng cách sửa chưa showroom và thuê địa điểm tạm thời tuy nhiên do ngân sách và bản thân xe để kinh doanh cũng đã bị tiêu hủy nên việc thu hẹp sản xuất là tất yếu, băt buộc để cân đối ngân sách.

Vậy, anh có cơ sở để đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động vì lý do showroom bị cháy.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com