Câu hỏi:
Anh L.T.D ở Hà Nội có gửi câu hỏi đến Công ty luật như sau:
Tôi đã đánh rơi Giấy chứng nhận đăng ký xe ở gần nhà, anh H.Q.H nhặt được và đã đến nơi cầm cố ở địa phương X để cầm cố cho khoản vay 10.000.000 đ. Khi biết được Giấy chứng nhận đăng ký của mình đang ở cơ sở X, tôi đã đến cơ sở X để yêu cầu hoàn trả lại Giấy chứng nhận đăng ký xe nhưng cơ sở X đã từ chối và yêu cầu tôi phải trả 10.000.000 đ kia thì mới trả lại Giấy chứng nhận đăng ký xe cho tôi.
Tôi xin hỏi, yêu cầu trên của cơ sở X có cơ sở pháp lý không?
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Hiệp Thành, câu hỏi của bạn được chuyên gia nghiên cứu và tư vấn như sau:
– Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;
Yêu cầu trả 10.000.000 đ kia thì mới trả lại Giấy chứng nhận đăng ký xe cho anh là không có cơ sở.
Đối với quy định của pháp luật về cầm cố tài sản, bạn tham khảo thêm tại Bộ luật Dân sự năm 2015 Phần thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng, Chương XV: Những quy định chung, Mục 3: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Tiểu mục 2-Cầm cố tài sản.
Cầm cố tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ với bên có quyền. Khi lựa chọn biện pháp cầm cố tài sản, bên có nghĩa vụ với mục đích đảm bảo với bên có quyền rằng bản thân mình chắc chắn thực hiện nghĩa vụ đó, nếu không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ, bên có quyền sẽ sử dụng những biện pháp được pháp luật quy định nhằm xử lý tài sản cầm cố thay cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Ngược lại, đối với bên có quyền, lựa chọn biện pháp cầm cố tài sản là để đảm bảo rằng quyền của mình sẽ được bảo đảm bằng hành vi hoặc bằng tài sản của bên có nghĩa vụ. Để hiểu rõ hơn về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cầm cố tài sản, những nội dung dưới đây sẽ giúp bạn làm rõ.
Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra định nghĩa về cầm cố tài sản như sau: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”.
Dựa vào định nghĩa trên, ta có thể chỉ ra một số đặc điểm của biện pháp bảo đảm cầm cố tài sản, qua đó cũng cho thấy sự khác biệt của cầm cố tài sản với những biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự khác:
Thứ nhất, quan hệ cầm cố đòi hỏi phải có sự chuyển giao tài sản bảo đảm từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố quản lý trong thời hạn của hợp đồng cầm cố. Như vậy, những tài sản là vật hữu hình sẽ là đối tượng của cầm cố. Còn những tài sản tồn tại dưới dạng quyền hay những tài sản sẽ hình thành trong tương lai thì sao? Quyền tài sản hay tài sản hình thành trong tương lai phải có các giấy tờ pháp lý cụ thể để xác định quyền sở hữu của bên bảo đảm và chắc chắn nó sẽ hình thành trong tương lai sẽ trở thành đối tượng của các giao dịch bảo đảm. Do vậy, các bên có thể lựa chọn các loại tài sản này là đối tượng của biện pháp cầm cố bằng cách khi giao kết hợp đồng sẽ chuyển giao các giấy tờ liên quan và khi tài sản hình thành hay quyền tài sản được thanh toán sẽ yêu cầu bên cầm cố chuyển giao bản thân những tài sản đó cho bên nhận cầm cố. Như vậy, phải có sự chuyển giao tài sản bảo đảm từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố quản lý trong thời hạn của hợp đồng cầm cố trong các trường hợp không phải là ngoại lệ là quyền tài sản hay tài sản hình thành trong tương lai.
Tài sản đóng một vai trò quan trọng trong Bộ luật dân sự, là vấn đề trung tâm của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Như vậy, trong quan hệ cầm cố ở sự việc của bạn. Đối tượng cầm cố đã được chuyển có thể xác định là vật hoặc giấy tờ có giá.
Trường hợp đối tượng cầm cố là vật (bản thân Giấy chứng nhận đăng ký xe). Giấy chứng nhận đăng ký xe là tài liệu mà cơ quan có thẩm quyền cấp cho chủ sở hữu xe. Căn cứ khoản 2 Điều 195 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì anh H.Q.H là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật:
“Điều 165. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật
…
Như vậy, do anh H.Q.H không phải là chủ sở hữu của Giấy chứng nhận đăng ký xe nên anh không đủ tư cách chủ thể để cầm cố tài sản này. Do đó, quan hệ cầm cố chưa hoàn thành nên cơ sở X chưa có quyền khác đối với tài sản này.
Trường hợp đối tượng cầm cố là giấy tờ có giá (Giấy chứng nhận đăng ký xe ). Theo Khoản 8, Điều 6, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010; Khoản 1, Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Như vậy, giấy chứng nhận đăng ký xe không phải giấy tờ có giá.
Theo quy định tại Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
“Điều 166. Quyền đòi lại tài sản
Do cơ sở X không có quyền phát sinh từ quan hệ cầm cố nên chủ sở hữu Giấy chứng nhận đăng ký xe có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Vậy, yêu cầu trả 10.000.000 đ kia thì mới trả lại Giấy chứng nhận đăng ký xe cho anh là không có cơ sở và chủ sở hữu Giấy chứng nhận đăng ký xe có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Trên đây là nội dung quy định về khái niệm cầm cố và giấy tờ có giá . Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com