Luật Hiệp Thành đưa ra tư vấn về việc chia tài sản chung khi không có đăng ký kết hôn?

Chào Luật sư xin hỏi:

Tôi và chồng kết hôn năm 2010, sau khi kết hôn bố mẹ chồng cho hai vợ chồng tôi cắt cho hai vợ chồng tôi mảnh đất cạnh nhà ông bà, nhưng chỉ cho bằng miệng chưa sang tên cho vợ chồng tôi. Năm 2012 vợ chồng tôi đã xây nhà trên mảnh đất trên, trị giá căn nhà lúc xây là 500 triệu. Nay vợ chồng tôi không còn tình cảm và muốn ly hôn. Vậy tôi có được chia tài sản là mảnh đất và căn nhà trên không? Cảm ơn luật sư!

Luật sư trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Luật Hiệp Thành. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

  1. Cơ sở pháp lý:

Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 06 năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014.

  1. Nội dung tư vấn:

Theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

  1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

  1. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

     a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

     b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

     c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

     d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

     3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

     4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

  1. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
  2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

Đối chiếu quy định trên thì mảnh đất bố mẹ chồng cho vợ chồng nhưng chưa thực hiện thủ tục sang tên, nên đó vẫn là tài sản của bố mẹ chồng chị. Do đó, đây không được xem là tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, chị sẽ không được chia phần diện tích đất trên sau khi ly hôn

Đối với căn nhà hai vợ chồng chị xây năm 2012 (trị giá khi xây là 500 triệu). Chị phải tiến hành xin xác nhận tại UBND xã nơi hai vợ chồng chị xây nhà để UBND xã xác nhận cho đây là tài sản do hai vợ chồng chị tự xây dựng. Ngoài ra, chị còn cung cấp các giấy tờ mua bán nguyên vật liệu xây dựng, thanh toán tiền công khi xây nhà …. Để Tòa án nhân dân thẩm quyền có căn cứ xem xét đây là tài sản chung của hai vợ chồng và tiến hành phân chia tài sản chung vợ chồng theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Việc phân chia tài sản là căn nhà nêu trên thì hai vợ chồng chị có thể thỏa thuận phân chia, trong trường hợp không thể tự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án có thẩm quyền sẽ chia theo quy định của pháp luật theo nguyên tắc là chia đôi nhưng tính đến các yếu tố: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trong trường hợp cần tìm hiểu rõ hơn hoặc có thắc mắc về vấn đề liên quan phiền Quý khách hàng liên hệ để được giải đáp.

Trân trọng!
Luật sư Trịnh Thị Hiền
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Gửi bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *