Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án

(LĐ&PL) Trao đổi với PV Báo Lao động Thủ đô, Luật sư Trần Văn Sáng, Công ty Luật TNHH Hiệp Thành cho rằng: “Đã hơn 03 tháng qua kể từ khi xảy ra vụ án, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa tiến hành trưng cầu giám định đối với người đã chết và những người bị thương là chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như nhanh chóng xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan”. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn.

PV: Văn bản số 587 ngày 3/3/2023 của Bệnh viện Bạch Mai cho biết, trong số những công nhân bị nhiễm độc methanol khi làm việc tại Công ty TNHH HS Tech Vina (Công ty HS Tech Vina) thì 1 người đã tử vong, 4 người tiên lượng di chứng mù và 1 người tiên lượng di chứng nặng với não (rối loạn ý thức, rối loạn vận động). Thưa luật sư, như vậy có thể coi đó là vụ tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hay chưa? Và cơ quan nào chịu trách nhiệm tiến hành điều tra vụ việc? (Sở lao động Thương binh và xã hội Bắc Ninh hay Công an thị xã Thuận Thành?).

Luật sư Trần Văn Sáng: Để trả lời cho câu hỏi đây có phải là vụ tai nạn lao động hay không? Đặc biệt nghiêm trọng không? Thì trước hết, chúng ta cần xác định tai nạn lao động là gì?

Theo quy định tại khoản 8, Điều 3 – Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 thì tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

Như vậy, theo quy định này, thì sự việc 35 công nhân bị nhiễm độc methanol trong quá trình làm việc tại xưởng sản xuất của Công ty HS Tech Vina đủ điều kiện để coi là một vụ tai nạn lao động.

Tiếp theo, để xác định mức nghiêm trọng của vụ tai nạn lao động này thì cần phải có con số thống kê số người chết hay tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những lao động thì mới có thể nhận định vụ án ở mức nghiêm trọng hay rất nghiêm trọng được. Khi có con số thông kê cụ thể, đối chiếu với quy định tại điểm a, khoản 1, khoản 5 Điều 295 – Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 97, Điều 1, Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2017 quy định về tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người thì cơ quan chức năng có thể xác định được mức nghiêm trọng của vụ tai nạn.

Còn về thẩm quyền điều tra vụ việc. Theo điểm b, khoản 2, Điều 11 – Nghị định 39/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động thì trước hết thẩm quyền điều tra thuộc Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và xã hội của địa phương nơi xảy ra tai nạn. Trong trường hợp này là Thanh tra Sở LĐ-TB& XH tỉnh Bắc Ninh Quy định cụ thể như sau:

Điều 11. Quyết định thành lập Đoàn Điều tra tai nạn lao động

2. Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh

a) Khi nhận được tin báo xảy ra tai nạn làm chết người hoặc làm từ 02 người bị tai nạn nặng trở lên thuộc thẩm quyền Điều tra, Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cử người đến hiện trường trong thời hạn 02 giờ và thông báo cho các cơ quan cử người tham gia Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh.”.

Trong trường hợp tai nạn lao động có dấu hiệu hình sự, Đoàn Điều tra tai nạn lao động cần phối hợp với cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra vụ tai nạn lao động.

Cụ thể, theo điểm a, b khoản 1 Điều 20 Nghị định 39/2016/NĐ-CP ngày

15/5/2016 của Chính phủ hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động quy định như sau:

Điều 20. Phối hợp Điều tra tai nạn lao động chết người và tai nạn lao động khác có dấu hiệu tội phạm

1. Việc phối hợp Điều tra tai nạn lao động chết người thực hiện như sau:

a) Khi phát hiện hoặc nhận được tin báo tai nạn lao động chết người, Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Cảnh sát Điều tra có thẩm quyền Điều tra ban đầu thực hiện việc sau đây: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, thu thập hồ sơ và tài liệu liên quan; đồng thời thông báo cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi;

b) Cơ quan đến nơi xảy ra tai nạn lao động trước có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đến sau (cơ quan Cảnh sát Điều tra thông báo cho Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh thông qua Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội). Sau khi thông báo, nếu Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh chưa đến kịp, cơ quan Cảnh sát Điều tra vẫn tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, thu thập hồ sơ và tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm thông báo cho Đoàn Điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh những công việc mà cơ quan Cảnh sát Điều tra đã tiến hành thuộc phạm vi quan hệ phối hợp quy định tại Điểm a Khoản này;”.

Như vậy, đối với vụ việc tai nạn lao động mà có dấu hiệu hình sự, thì thẩm quyền điều tra sẽ là Cơ quan Cảnh sát điều tra nơi xảy ra vụ việc tai nạn.

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án
Luật sư Trần Văn Sáng – Công ty Luật TNHH Hiệp Thành (Đoàn luật sư TP Hà Nội)

PV: Thưa luật sư, sự việc đã xảy ra hơn 3 tháng, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa khởi tố vụ án, chưa đưa những công nhân bị nhiễm độc methanol nặng đi giám định thì liệu có bất thường hay không?

Luật sư Trần Văn Sáng: Theo chúng tôi đánh giá vụ việc này ở mức độ rất nghiêm trọng khi có tới 35 người nhiễm độc methanol, trong đó có người chết và nhiều người khác bị thương nặng. Do đó, các cơ quan Điều tra cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác, đặc biệt là về lĩnh vực Y tế để xác định rõ nguyên nhân dẫn đến chết người, gây ra mức tổn hại sức khỏe đối với người lao động nhằm đảm bảo xử lý đúng quy định của pháp luật, đúng người đúng tội.

Khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định theo khoản 3 và 4, Điều 206 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bao gồm: Nguyên nhân chết người; Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động.

Bên cạnh đó, theo điểm b và c, khoản 1, Điều 208 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thời hạn giám định như sau:

“Điều 208. Thời hạn giám định

1. Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:

b) Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của Bộ luật này;

c) Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật này.”.

Theo đó, liên quan đến vấn đề chết người, mức tổn hại cho sức khỏe thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Thời gian giám định đối với trường hợp chết người không quá 01 tháng và không quá 09 ngày đối với tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động.

Tuy nhiên, đã hơn 03 tháng qua kể từ khi xảy ra vụ án, nếu Công an thị xã Thuận Thành chưa tiến hành trưng cầu giám định đối với người đã chết và những người bị thương là chưa đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như nhanh chóng xử lý những sai phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan. Do đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện điều tra sớm kết quả vụ án và qua đó cần xác định nguyên nhân, mức độ tổn thương đối với những người lao động bị nhiễm độc methanol.

PV: Theo tìm hiểu của PV, trong số những người bị nhiễm độc methanol, nhiều công nhân là người dân tộc thiểu số, có người mới 16 tuổi, phần lớn trong số họ không ký hợp đồng trực tiếp với công ty HS Tech Vina mà được các công ty tuyển dụng lao động đưa vào công ty HS Tech Vina làm việc, họ cũng không được ký hợp đồng với các công ty này. Thưa luật sư, vậy Công ty HS Tech Vina hay các công ty kia phải chịu trách nhiệm với những người công nhân bị nhiễm độc methanol?

Luật sư Trần Văn Sáng: Đầu tiên, cần làm rõ vai trò của các công ty tuyển dụng người lao động đưa vào làm việc tại Công ty TNHH HS Tech Vina. Họ là đơn vị giới thiệu người lao động hay thực hiện cung ứng (cho thuê lại) người lao động để làm rõ trách nhiệm trong vụ việc này. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải xác định vai trò của Công ty đã giới thiệu người lao động để xem xét trách nhiệm với những người công nhân bị nhiễm độc methanol.

Thứ nhất, về đảm bảo quy định pháp luật lao động của người sử dụng lao động đối với người lao động. Theo thông tin đăng tải, người lao động được đưa vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina mà không được ký Hợp đồng lao động với Công ty HS Tech Vina hay Công ty cung ứng lao động – đơn vị đưa họ vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina là không đúng với quy định tại khoản 2, Điều 13 – Bộ luật Lao động năm 2019. Đồng thời, người sử dụng lao động không ký hợp đồng lao động bằng văn bản với người lao động là vi phạm quy định tại Điều 14 – Bộ luật Lao động năm 2019. Vì trường hợp này không thuộc trường hợp được giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.

Đối với hành vi vi phạm này, đơn vị sử dụng lao động có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 9 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/10/2022 của Chính Phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với mức tiền phạt cao nhất là 25 triệu đồng.

Thứ hai, về trách nhiệm đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.

Điều 134 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc như sau:

“Điều 134. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc

1. Người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.

2. Người lao động có trách nhiệm chấp hành quy định, nội quy, quy trình, yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động; tuân thủ pháp luật và nắm vững kiến thức, kỹ năng về các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.”

Như vậy, Công ty TNHH HS Tech Vina có trách nhiệm đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc, cụ thể là nhà máy, phân xưởng sản xuất theo đúng quy định của pháp luật yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động.

Khi Công ty HS Tech Vina có vi phạm trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc có thể bị xử lý vi phạm hành chính quy định tại Nghị định số 12/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng.

Ngoài ra, hành vi của Công ty có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” quy định tại Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

PV: Một số người nhà nạn nhân của vụ nhiễm độc methanol cho biết, họ được Công ty HS Tech đưa tiền (có người vài triệu có người hàng trăm triệu) nhưng phải ký vào giấy những nội dung cam kết như tự chịu trách nhiệm về sức khỏe sau này hoặc không được khiếu kiện. Thưa luật sư, việc làm đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không?

Phía sau vụ công nhân nhiễm độc methanol- Kỳ 5: Công an thị xã Thuận Thành cần khởi tố vụ án
Một công nhân làm việc tại Công ty HS Tech Vina bị nhiễm methanol rất nặng

Luật sư Trần Văn Sáng: Về trách nhiệm dân sự, cụ thể là bồi thường thiệt hại các bên chủ thể có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận về mức bồi thường. Trường hợp Công ty HS Tech Vina và các Công ty cung ứng, giới thiệu người lao động vào làm việc tại Công ty HS Tech Vina trao đổi, thỏa thuận và thống nhất về mức bồi thường, số tiền cụ thể bồi thường là phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong dân sự.

Về trách nhiệm hình sự, việc Công ty HS Tech Vina có dấu hiệu vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động mà mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc xử lý trách nhiệm hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án).

Tóm lại, về trách nhiệm dân sự, các bên chủ thể có thể thỏa thuận với nhau về số tiền bồi thường thiệt hại; về trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm không thể thỏa thuận, nếu hành vi có mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu, xử lý trách nhiệm hình sự thì chủ thể thực hiện buộc phải chịu trách nhiệm pháp lý này.

PV: Vâng, xin cảm ơn luật sư về cuộc trao đổi này. Xin chúc luật sư thật nhiều sức khỏe. Trân trọng cảm ơn!

Để hiểu rõ thêm về vụ việc, chúng tôi đã làm việc với ông Nguyễn Quang Huy, Đội trưởng đội Điều tra tổng hợp- Công an Thị xã Thuận Thành. Suốt buổi làm việc, những câu hỏi chúng tôi đặt ra như: Cồn methanol nhập từ đâu, có đảm bảo chất lượng hay không, ai là người chỉ định đưa cồn methanol vào sản xuất? Những công nhân bị nhiễm độc methanol có được Công ty HS Tech Vina ký hợp đồng lao động và đóng bảo hiểm hay không? Tuy nhiên ông Huy chỉ trả lời chung chung: “Ngay sau khi nhận được tin báo Công ty HS Tech Vina xẩy ra tai nạn, Công an thị xã Thuận thành đã tiến hành các biện pháp theo quy định của pháp luật. Khi nào có kết quả cụ thể sẽ thông tin theo quy định”.

Đến ngay cả những câu hỏi của chúng tôi đưa ra mà “nhắm mắt cũng có thể trả lời được” như: Ngoài trường hợp chị H bị tử vong, có những trường hợp khác được BV Bạch Mai chẩn đoán là bị nhiễm độc methanol nặng có thể bị mù, Công an Thị xã Thuận Thành đã đưa đi giám định thương tật chưa? Đã khởi tố vụ án hay chưa?…thì ông Huy vẫn chỉ một mực nói: “Nội dung Báo Lao động Thủ đô đề nghị, do chưa có kết quả chính thức nên xin phép chúng tôi chưa phát ngôn”.

Theo Báo Lao động và Pháp luật.

Giao dịch bất động sản phải qua sàn: Nên thay bằng công chứng?

Việc giao cho sàn giao dịch xác nhận hợp đồng, giao dịch bất động sản là không đúng với bản chất độc lập trong việc thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công về phòng ngừa tranh chấp của Nhà nước.

LTS: Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) quy định bắt buộc một số giao dịch bất động sản phải thông qua sàn. Nhiều ý kiến đồng tình với quy định này nhưng cũng có người cho rằng đề xuất này là chưa hợp lý.

Để rộng đường dư luận, Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu bài viết của TS Ninh Thị Hiền; số báo sau, chúng tôi sẽ tiếp tục đăng tải các ý kiến khác xung quanh vấn đề này.

Từ năm 2014 đến nay, pháp luật không buộc phải công chứng, chứng thực đối với các giao dịch bất động sản (BĐS) của tổ chức kinh doanh BĐS mà tùy theo yêu cầu của các bên. Đây là một phần nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án liên quan đến giao dịch BĐS có số người bị hại lên đến vài ngàn người.

Tại dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và Luật Kinh doanh BĐS (sửa đổi) đang được lấy ý kiến nhân dân đã quy định: Chủ đầu tư bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án BĐS phải thực hiện thông qua sàn giao dịch BĐS.

Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) quy định chủ đầu tư bán nhà ở hình thành trong tương lai… phải thông qua sàn giao dịch bất động sản. 

Dự thảo cũng quy định xác nhận của sàn giao dịch BĐS đối với các giao dịch thông qua sàn là cơ sở để các chủ thể tham gia giao dịch kê khai nộp thuế cho Nhà nước, đăng ký biến động, sang tên quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất – tức là có giá trị như xác nhận trên hợp đồng của các tổ chức hành nghề công chứng hiện nay.

Có thể gây nên “bong bóng” BĐS

Theo dự thảo, sàn giao dịch BĐS là nơi tổ chức việc bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS; giới thiệu, kiểm tra giấy tờ về BĐS bảo đảm đủ điều kiện được giao dịch; niêm yết, cung cấp công khai thông tin về BĐS đủ điều kiện được đưa vào kinh doanh cho các bên tham gia có nhu cầu giao dịch; làm trung gian cho các bên trao đổi, đàm phán và ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua BĐS.

Mối quan hệ giữa chủ đầu tư dự án và sàn giao dịch BĐS được thực hiện thông qua hình thức chủ đầu tư thành lập ra sàn giao dịch BĐS để bán chính hàng hóa của mình, hoặc ký hợp đồng dịch vụ BĐS với sàn giao dịch BĐS, hoặc chủ đầu tư ủy quyền cho nhân viên môi giới BĐS của sàn giao dịch BĐS thực hiện.

Sàn giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của chính mình, thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có quyền hoặc bên ủy quyền. Khi đó, sàn sẽ được thu phí dịch vụ của chủ đầu tư hoặc khách hàng có BĐS được đưa lên sàn. Cá nhân môi giới BĐS được hưởng tiền thù lao, hoa hồng từ sàn.

Từ đây sẽ phát sinh mối quan hệ phụ thuộc giữa một bên giao việc và một bên thực hiện công việc nhằm đạt được mục đích của chủ đầu tư là bán hàng hóa càng nhiều thì tiền phí dịch vụ, thù lao, hoa hồng của sàn cũng như nhân viên môi giới sẽ càng tăng. Cá nhân môi giới, tư vấn BĐS sẽ quan tâm đến lợi ích tốt nhất của chủ đầu tư cũng như sàn giao dịch BĐS.

Bài học kinh nghiệm ở các quốc gia đã qua thời kỳ lạm phát và bong bóng BĐS chỉ ra rằng một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này xuất phát từ mối quan hệ phụ thuộc giữa sàn giao dịch BĐS, nhân viên môi giới, nhân viên tư vấn BĐS với chủ đầu tư.

Các nhân viên môi giới, tư vấn BĐS có thể gây nhầm lẫn hoặc không tiết lộ thông tin quan trọng, quảng cáo về sự đảm bảo tính thanh khoản của BĐS hay các vấn đề liên quan đến sự hoàn thiện về mặt vật lý cũng như pháp lý của BĐS nhằm chốt các giao dịch, cấp các khoản cho vay để đảm bảo doanh số bán hàng và kiếm tiền phí dịch vụ, thù lao và hoa hồng. Các nghĩa vụ mà chủ đầu tư áp đặt đối với các đại lý BĐS, các sàn giao dịch BĐS cũng có thể ảnh hưởng đến cách các nhân viên môi giới và tư vấn thực hiện nhiệm vụ của họ.

Cần một tổ chức độc lập

Hiện nay, tại Việt Nam nhân viên môi giới BĐS chỉ cần có trình độ tốt nghiệp THPT trở lên, đã qua sát hạch về kiến thức môi giới BĐS. Nhân viên tư vấn BĐS thì không xác định tiêu chuẩn như thế nào. Không có một văn bản pháp luật riêng biệt, một quy tắc đạo đức hành nghề, quy trình hay tiêu chuẩn ứng xử chuyên nghiệp của nhân viên môi giới và nhân viên tư vấn để có thể xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm bảo vệ người tiêu dùng.

Vì vậy, để đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ bên yếu thế cũng như góp phần minh bạch thông tin trong thị trường BĐS thì các giao dịch về BĐS cần phải có sự xác nhận của một bên hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc về mặt lợi ích với các chủ đầu tư kinh doanh BĐS. Có thể thấy vai trò này hiện nay đang do các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.

Vậy nên chăng, thay vì yêu cầu phải thực hiện giao dịch qua sàn giao dịch BĐS như dự thảo đã nêu thì nên tăng cường, mở rộng phạm vi cho các tổ chức hành nghề công chứng bằng cách yêu cầu các giao dịch BĐS mà “một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh BĐS” cũng bắt buộc phải công chứng?

Công chứng tự nguyện hiện nay tại Việt Nam đối với các giao dịch về BĐS tự nó không thể giải quyết được công bằng xã hội, sự bất công, do nó tự sinh ra. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục đích và là động lực chi phối mạnh mẽ các hoạt động của các chủ thể, dẫn đến cạnh tranh gay gắt, kể cả thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Khi đó, bản chất độc lập trong hoạt động công chứng sẽ giúp kiểm tra, giám sát việc thực thi, chấp hành đúng pháp luật của chủ đầu tư, nhân viên môi giới, tư vấn BĐS để bảo vệ người yếu thế, đồng thời nhằm duy trì ổn định, trật tự để kinh tế phát triển.

Ngoài ra, vai trò phòng ngừa tranh chấp của hoạt động công chứng cũng tác động đến cách hành xử của người yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động giải thích và tư vấn pháp luật độc lập của công chứng viên (CCV), nhận thức của người người yêu cầu công chứng được nâng cao, họ tự hành xử cẩn thận hơn vì sợ trách nhiệm nếu tham gia vào các giao dịch gian dối.

Ở khía cạnh công bằng và trung thực, để có niềm tin từ công chúng, Nhà nước buộc CCV là người có trình độ cao, với tiêu chuẩn đào tạo, bồi dưỡng, quản lý khắt khe trong quá trình hành nghề, quy trình công chứng minh bạch, hoạt động nghề nghiệp độc lập, không thiên vị với các hành vi mà CCV soạn thảo và xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp. Các quy định này khiến CCV trở thành một “thẩm phán phòng ngừa” tự nguyện phục vụ các bên tham gia giao dịch chịu trách nhiệm quản lý giám sát của cơ quan chức năng và các bên để gìn giữ sứ mệnh phòng ngừa tranh chấp, bảo đảm minh bạch thông tin và công bằng xã hội.

Các nước quy định ra sao?

Tại Pháp, “mọi văn bản hay quyền để thực hiện các thủ tục đăng ký đất đai đều phải được thể hiện dưới hình thức văn bản công chứng do một CCV hành nghề tại Pháp lập, quyết định của tòa án hay một văn bản của cơ quan hành chính. Văn bản ký tư, có chữ ký hay không, ngay cả khi có công nhận chữ viết và chữ ký, được nộp tại lưu trữ của văn phòng công chứng đều không có giá trị để đăng ký đất đai…” (Điều 710 BLDS Pháp).

Trong khi đó, Điều 925 BLDS Đức quy định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu thửa đất phải được công chứng, cho dù có hợp đồng sơ bộ nào được ký kết trong thực tế thì hợp đồng này cũng phải được công chứng, vì chức năng của hành vi công chứng là cung cấp lời khuyên pháp lý cho các bên trước khi họ bị ràng buộc. CCV phải xác nhận cho người mua về sự tồn tại của hầu hết điều kiện tiên quyết cần thiết. Hợp đồng chuyển quyền BĐS được đăng ký trong sổ đăng ký đất đai được thực hiện bởi CCV (Điều 55 Luật Đăng ký BĐS).

Còn tại Trung Quốc, một số hợp đồng yêu cầu phải công chứng như các hợp đồng chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê, xây dựng và phát triển liên quan đến BĐS thương mại, các hợp đồng liên quan đến nhà ở cho người nước ngoài sử dụng. Một số các hợp đồng về BĐS sẽ không được đăng ký nếu không có công chứng.

Theo Báo mới.

Từ 1-3-2023: Chính thức triển khai cấp hộ chiếu gắn chíp điện tử

Kể từ ngày 01/3/2023, Bộ Công an sẽ triển khai cấp Hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử cho công dân Việt Nam theo Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam .

Theo lãnh đạo Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an, hộ chiếu có gắn chíp điện tử là hộ chiếu có gắn thiết bị điện tử lưu giữ thông tin được mã hóa của người mang hộ chiếu và chữ ký của người cấp.

Đây là một bước cải tiến mới nhằm tạo thuận lợi cho công dân Việt Nam, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xuất nhập cảnh và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước.

Hình thức của hộ chiếu gắn chíp điện tử cơ bản giống với hộ chiếu không gắn chíp điện tử với bìa màu xanh tím than, các trang trong hộ chiếu là cảnh đẹp đất nước, di sản văn hóa Việt Nam.

Hình ảnh bên ngoài hộ chiếu gắn chíp điện tử

Hình ảnh bên ngoài hộ chiếu gắn chíp điện tử

Toàn bộ nội dung, hình ảnh in trong hộ chiếu được thực hiện bằng công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu bảo an, chống nguy cơ làm giả và đạt tiêu chuẩn ICAO.

Để phân biệt với hộ chiếu không gắn chíp điện tử, ở trang bìa đầu tiên của cuốn hộ chiếu có gắn chíp điện tử có biểu tượng chíp điện tử. Chíp điện tử được đặt tại trang bìa sau của cuốn hộ chiếu để lưu trữ thông tin nhân thân và thông tin sinh trắc học của người được cấp hộ chiếu (gồm ảnh mặt, vân tay…) và chữ ký số của cơ quan cấp hộ chiếu.

Về cơ bản, hình thức của hộ chiếu gắn chip điện tử và không gắn chip điện tử giống nhau khi cùng sử dụng bìa màu xanh tím than và các trang trong hộ chiếu là cảnh đẹp đất nước, di sản văn hóa Việt Nam

Người dân cần lưu ý, hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử và hộ chiếu phổ thông có gắn chíp điện tử được sử dụng song hành. Công dân Việt Nam đã được cấp hộ chiếu phổ thông không gắn chíp điện tử sẽ được tiếp tục sử dụng đến khi hết thời hạn của hộ chiếu, không bắt buộc phải đổi sang hộ chiếu có gắn chíp điện tử. Do đó, Cục Quản lý xuất nhập cảnh khuyến cáo người dân không đổ xô đi làm hộ chiếu khi hộ chiếu không gắn chíp điện tử vẫn còn thời hạn sử dụng.

Đối với với hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu, công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên có quyền được lựa chọn cấp hộ chiếu không gắn chíp điện tử hoặc cấp hộ chiếu có gắn chíp điện tử (tại Tờ khai đề nghị cấp hộ chiếu đã có sẵn lựa chọn hình thức hộ chiếu để công dân tự điền).

Cục Quản lý xuất nhập cảnh cũng đề nghị công dân làm hồ sơ cấp hộ chiếu qua cổng dịch vụ công trực tuyến Quốc gia hoặc Bộ Công an, tránh tình trạng tập trung đông người tại trụ sở cơ quan cấp hộ chiếu.

Theo Báo mới.

Quy định về gia hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm

Ông Nguyễn Biên Cương (Lai Châu) đang sử dụng 1 mảnh đất (mua năm 2018), đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm 1 phần diện tích là đất ở và phần còn lại là đất trồng cây hàng năm (vườn – cùng nằm trên một thửa đất). Đất đang sử dụng bình thường, không tranh chấp.

Hiện nay, thời gian sử dụng đất trồng cây hàng năm của ông Cương đã hết hạn sử dụng. Trong gia đình, vợ chồng ông Cương là công chức, viên chức; bà nội là công nhân công ty đường bộ mới nghỉ hưu, em gái bị thiểu năng trí tuệ, không lao động được.

Ông Cương hỏi, ông có được phép gia hạn và sử dụng phần diện tích đất trồng cây hàng năm nêu trên không? Quy định như thế nào, ở văn bản nào?

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả ời vấn đề này như sau:

Theo phản ánh của ông thì thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm 1 phần diện tích đất ở và phần còn lại là đất trồng cây hàng năm (vườn – cùng nằm trên một thửa đất) nhưng không rõ thời hạn sử dụng cụ thể trên Giấy chứng nhận nên Bộ Tài nguyên và Môi trường không có đủ cơ sở để trả lời cụ thể. Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp thông tin để ông tham khảo như sau:

Tại Khoản 3 Điều 210 Luật Đất đai quy định:

“3. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, khi hết thời hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 126 của Luật này. Thời hạn sử dụng đất được tính từ ngày 15/10/2013 đối với trường hợp hết hạn vào ngày 15/10/2013 theo quy định của Luật Đất đai năm 2003; tính từ ngày hết thời hạn giao đất đối với trường hợp hết hạn sau ngày 15/10/2013”.

Tại Điều 74 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định trình tự, thủ tục gia hạn sử dụng đất; xác nhận tiếp tục sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân khi hết hạn sử dụng đất.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp thông tin để ông liên hệ với Văn phòng Đăng ký đất đai tại địa phương để được giải quyết theo thẩm quyền.

Theo Báo mới.

Đấu giá bằng sáng chế, tại sao không?

Câu chuyện về đấu giá bằng sáng chế là không mới trên thế giới. Nhưng tại Việt Nam, tính đến đầu năm 2023, trên Cổng thông tin điện tử quốc gia của Bộ tư pháp về đấu giá tài sản thì chưa có thông tin đấu giá công khai nào về tài sản vô hình. Điều này đặt ra câu hỏi liệu đấu giá bằng sáng chế có khả thi tại nước ta?

Đấu giá bằng sáng chế là chuyện không mới trên thế giới. Chẳng hạn ở Trung Quốc, phiên đấu giá bằng sáng chế đầu tiên được tổ chức trên sàn giao dịch công nghệ Trung Quốc (CTEX) cách đây chừng 13 năm, vào ngày 16-12-2010.

Trước đó một chút, buổi đấu giá sáng chế đầu tiên tại Ấn Độ đã diễn ra vào ngày 28-8-2010. Đạo luật Bằng sáng chế 1970 của Ấn Độ cho phép chủ sở hữu bằng sáng chế được phép bán phát minh của họ cho các bên khác theo những điều khoản đã được thỏa thuận chung.

Còn tại Mỹ, phiên đấu giá sở hữu trí tuệ trực tiếp lần đầu do Ocean Tomo LLC (hoạt động trong lĩnh vực tài sản trí tuệ và các tài sản vô hình khác) tổ chức tại San Francisco vào tháng 4-2006.

Các lĩnh vực công nghệ được lựa chọn để đấu giá bằng sáng chế bao gồm: thực tế tăng cường/thực tế ảo (augmented reality/virtual reality), mạng lưới vạn vật kết nối (Internet of Things), xe tự lái (autonomous vehicle), phương tiện truyền thông (media), trung tâm dữ liệu (data center), chất bán dẫn (semiconductor), trưng bày (display), viễn thông (telecommunications).

Những khó khăn trong đấu giá bằng sáng chế

Đấu giá bằng sáng chế phức tạp hơn với tỷ lệ thành công thấp so với đấu giá hàng hóa thông thường. Thực trạng tại nhiều quốc gia cho thấy thử thách lớn nhất khi tổ chức một cuộc đấu giá bằng sáng chế là tìm kiếm người mua phù hợp. Thông thường, trước khi tổ chức phiên đấu giá, bên tổ chức phải xác định người mua phù hợp tại phiên đấu giá và những thông tin về bằng sáng chế đã được cung cấp đầy đủ và chính xác cho đúng người mua.

Khác với các phương thức chuyển giao công nghệ truyền thống như giao dịch thỏa thuận hoặc thương lượng, đấu giá bằng sáng chế có phạm vi bao quát rộng hơn, tính minh bạch cao hơn và đấu thầu công khai. Chính vì vậy, quy trình thẩm định đấu giá bằng sáng chế có thể lâu hơn và nội dung thẩm định chi tiết hơn.

Ngoài ra, trong đấu giá tài sản vô hình nói chung và đấu giá bằng sáng chế nói riêng, việc định giá tài sản phải đối mặt với thực tiễn của thị trường và nhu cầu từ người tham gia tại buổi đấu giá. Trong thực tế các cuộc đấu giá, đôi khi, cùng một bằng sáng chế nhưng phải đấu giá nhiều lần, đó là do mức giá ban đầu đưa ra quá cao và sau đó được điều chỉnh lại ở mức phù hợp.

Sự cần thiết của đấu giá bằng sáng chế ở Việt Nam

Ở nước ta, pháp luật về đấu giá tài sản đã được quy định tại Luật Đấu giá tài sản 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP. Về nguyên tắc đấu giá tài sản, cuộc đấu giá phải bảo đảm tính độc lập, trung thực, công khai, minh bạch, công bằng và khách quan. Ngoài ra, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia đấu giá được bảo vệ hợp lý. Giá khởi điểm khi bán đấu giá tài sản được tổ chức đấu giá xác định theo ủy quyền của người có tài sản đấu giá.

Nhưng cũng như nhiều quốc gia khác trong khu vực ASEAN (trừ Singapore), đấu giá bằng sáng chế vẫn chưa phổ biến tại thị trường Việt Nam. Dù vậy, sáng chế lại là một trong bốn đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được đăng ký bảo hộ nhiều nhất, theo số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ, tính đến cuối năm 2021. Việt Nam bảo hộ sáng chế dưới hai hình thức là bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích.

Cũng theo số liệu của Cục sở hữu trí tuệ, trong giai đoạn 1981-2021, số bằng độc quyền sáng chế đã cấp là 31.033/91.164 đơn đăng ký; trong giai đoạn 1989-2021, số bằng độc quyền giải pháp hữu ích đã cấp là 2.800/7.805 đơn đăng ký. Số lượng đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích tăng dần qua từng năm cho thấy nhu cầu bảo hộ sáng chế của người Việt ngày càng tăng.

Cùng với đó, số đơn khiếu nại liên quan đến quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ sáng chế và giải pháp hữu ích trong giai đoạn 2011-2021 là 419 đơn. Con số này tuy chưa nhiều như các nước phát triển nhưng cũng đưa ra cảnh báo cho việc cần thiết hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp này.

Về định hướng phát triển, trong Quyết định 2205/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030, nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ là một nội dung thiết yếu. Việt Nam đang đặt mục tiêu thương mại hóa tài sản trí tuệ như động lực khuyến khích đổi mới sáng tạo và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Để chuẩn bị cho hoạt động đấu giá bằng sáng chế, Việt Nam cần xây dựng cơ sở dữ liệu về sáng chế và tích hợp hoạt động đấu giá sáng chế trên sàn giao dịch này.

Hiện đã có nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp (là sản phẩm thuộc Chương trình 2075 – Phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020 của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ) , tuy nhiên, chuyên mục sàn giao dịch chỉ mới tồn tại dưới hình thức trang thông tin, chưa xây dựng dữ liệu cũng như triển khai giao dịch.

Vì vậy, các cơ quan và tổ chức được ủy quyền thực hiện cần hoàn thiện dữ liệu và ứng dụng giao dịch đấu giá bằng sáng chế.

Bên cạnh đó, hoạt động này cũng cần có cơ chế quản lý rõ ràng. Trong thời gian tới, Chính phủ cần hoàn thiện một khung pháp lý cho hoạt động đấu giá bằng sáng chế. Đây sẽ là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đấu giá tài sản vô hình.

Bảo hiểm bằng sáng chế

Những năm trở lại đây, bảo hiểm bằng sáng chế là sản phẩm kinh doanh mới tại nhiều quốc gia phát triển. Một thống kê cho thấy thị trường bảo hiểm bằng sáng chế toàn cầu có mức thu phí bảo hiểm hàng năm khoảng 50-60 triệu đô la Mỹ, trong đó Mỹ chiếm khoảng 50%, EU và châu Á lần lượt chiếm 40% và 10%( ). Bảo hiểm bằng sáng chế phổ biến hơn ở Trung Quốc và Singapore.

Hiện bảo hiểm bằng sáng chế được phân làm hai loại: bảo hiểm phòng thủ (defensive coverage) và bảo hiểm thực thi (enforcement coverage). Bảo hiểm phòng thủ là bảo hiểm phòng ngừa rủi ro phải chi trả chi phí kiện tụng và các khoản bồi thường thiệt hại nếu bên được bảo hiểm (bị đơn) bị kiện vì sử dụng bằng sáng chế của nguyên đơn bất hợp pháp. Bảo hiểm thực thi là bảo hiểm về những khoản chi phí kiện tụng của nguyên đơn theo đuổi bị đơn đã sử dụng bằng sáng chế của nguyên đơn bất hợp pháp.

Kết quả một khảo sát của Văn phòng Sở hữu trí tuệ Liên minh châu Âu (EUIPO) thực hiện vào năm 2017 cho thấy tính phổ biến của sản phẩm bảo hiểm sở hữu trí tuệ tại EU còn hạn chế, nhưng vẫn có tiềm năng mở rộng phạm vi kinh doanh. Bên cạnh đó, giảm phí bảo hiểm được xem là một yếu tố quan trọng hấp dẫn những người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ.

Tại Việt Nam, với số lượng lớn bằng sáng chế hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn có thể kỳ vọng về một thị trường triển vọng đối với sản phẩm bảo hiểm bằng sáng chế. Các vấn đề mà cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét để chuẩn bị cho sự phát triển của sản phẩm kinh doanh này:

Một là, hoàn thiện quy định quốc gia đối với pháp luật về sáng chế. Gần đây, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 có quy định một nội dung về sản phẩm bảo hiểm có sự hỗ trợ của Nhà nước.

Theo đó, Nhà nước tạo điều kiện cho các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và các sản phẩm bảo hiểm vì mục tiêu an sinh, xã hội. Cùng với mục tiêu tăng cường khai thác và xúc tiến thương mại trong chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 (Quyết định 2205/QĐ-TTg ngày 24-12-2020) thì Chính phủ nên có những chính sách khuyến khích và gợi mở các tổ chức, cá nhân trên thị trường tham gia bảo hiểm bằng sáng chế.

Hai là, cơ sở dữ liệu về sáng chế cần được xây dựng và quản lý hiệu quả. Bên cạnh những lợi ích, bảo hiểm bằng sáng chế cũng có những hạn chế tồn tại cần được quy định rõ ràng trong hợp đồng bảo hiểm bằng sáng chế, đặc biệt là vấn đề cân bằng quyền lợi giữa bên mua bảo hiểm và những quy định hạn chế nhằm phục vụ lợi ích cộng đồng.

Việc xây dựng dữ liệu đầy đủ và quản lý công khai sẽ góp phần tạo sự an tâm cho bên tham gia bảo hiểm bằng sáng chế, thu hút nhà đầu tư góp vốn kinh doanh, cũng như tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch để thúc đẩy phát triển thị trường.

(*) Khoa Luật, trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế TPHCM

Theo Báo mới.

Yêu cầu không chia nhỏ các tiểu dự án khi làm vành đai 4

Phó thủ tướng yêu cầu địa phương không chia nhỏ các tiểu dự án; phải dự toán phù hợp, không đẩy tổng mức đầu tư lên cao làm ảnh hưởng đến nguồn vốn chung của toàn dự án vành đai 4.

Phối cảnh một phần đường của dự án vành đai 4 – vùng thủ đô. 

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành thông báo kết luận của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà tại cuộc họp về tình hình thực hiện dự án đầu tư xây dựng tuyến vành đai 4 – vùng thủ đô.

Theo đó, Phó thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh chủ động quyết định các nội dung thuộc thẩm quyền trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, phê duyệt các dự án thành phần…

Các nội dung trên phải được thực hiện theo đúng cơ chế, chính sách đã được quy định tại Nghị quyết số 56 của Quốc hội và Nghị quyết số 106 của Chính phủ, bảo đảm tiến độ triển khai.

Phó thủ tướng lưu ý với việc mở rộng, cải tạo, chỉnh trang các nghĩa trang hiện có phục vụ công tác giải phóng mặt bằng, các địa phương cần thực hiện việc chỉ định theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật.

Việc xây mới các nghĩa trang phải có quy hoạch được duyệt, phù hợp với các quy hoạch khác có liên quan, đồng bộ với hạ tầng kinh tế – xã hội.

Ngoài ra, việc sử dụng vốn hợp pháp của địa phương cho công tác giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư phải trên cơ sở dự án được duyệt theo đúng quy định; đẩy nhanh hỗ trợ giải phóng mặt bằng.

Đáng lưu ý, Phó thủ tướng yêu cầu địa phương không chia nhỏ các tiểu dự án; phải tiên lượng, dự toán phù hợp, không đẩy tổng mức đầu tư lên cao làm ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn chung của toàn bộ dự án.

Đồng thời, các nút giao giữ nguyên như báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đã được Quốc hội, Chính phủ chấp thuận; các nút giao cắt phải khác đồng mức.

Lãnh đạo Chính phủ cũng yêu cầu đơn vị liên quan điều chỉnh cao độ tĩnh không các cầu cạn cho phù hợp; thiết kế mặt cắt ngang cầu qua sông phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và xu thế phát triển trong tương lai.

Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng được chỉ đạo phối hợp, hướng dẫn khâu thẩm định, thiết kế, thi công các dự án.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm xem xét và có ý kiến thỏa thuận với đề nghị của UBND Hà Nội về phương án thiết kế các công trình cầu qua sông có đê thuộc dự án.

Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm xem xét và có ý kiến về đề xuất của Ban Chỉ đạo về những nội dung liên quan; thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường các dự án thành phần, bao gồm việc khai thác mỏ vật liệu xây dựng trong tháng 2.

Ngoài ra, Bộ Công Thương phối hợp, giúp đỡ các địa phương về việc thỏa thuận giải pháp thiết kế di chuyển, bảo vệ hệ thống điện cao thế 110 KV, 220 KV, 500 KV, trong phạm vi giải phóng mặt bằng.

Phó thủ tướng yêu cầu Hà Nội là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện và báo cáo kết quả triển khai, bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ toàn dự án.

Thành phố cũng được giao chủ trì, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét và quyết định việc điều chỉnh chủ trương đầu tư trong trường hợp phát sinh các yếu tố dẫn đến điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.

Theo Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông Hà Nội, tính đến hết ngày 17/2, gần 5.200 ngôi mộ đã được di chuyển để giải phóng mặt bằng làm dự án vành đai 4 – vùng thủ đô, đạt 44% kế hoạch.

Các đơn vị cũng phê duyệt và thu hồi 236,82 ha đất, đạt 29,2% chỉ tiêu với tổng số tiền chi trả là hơn 1.900 tỷ đồng. Một số huyện cơ bản hoàn thành công tác di dời mộ gồm: Mê Linh, Sóc Sơn, Thanh Oai, Thường Tín.

Theo Báo mới.

Luật Đất đai (sửa đổi): Giá đất được quy định thế nào?

Mục 2, Chương XI, Tài chính về đất đai, giá đất (từ Điều 153 đến Điều 158) dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định các nội dung về giá đất.

Giao Chính phủ quy định phương pháp định giá đất

Tại Điều 153. Nguyên tắc, phương pháp định giá đất, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định, Việc định giá đất phải bảo đảm các nguyên tắc: Theo mục đích sử dụng đất định giá; Theo thời hạn sử dụng đất và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá đất; Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường quyền sử dụng đất trong điều kiện bình thường; Tuân thủ đúng phương pháp, trình tự, thủ tục định giá đất theo quy định của pháp luật; Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, trung thực, khách quan của kết quả định giá đất giữa cơ quan định giá, cơ quan thẩm định và cơ quan quyết định.

Giá đất phổ biến trên thị trường trong điều kiện bình thường được xác định bằng bình quân của các mức giá giao dịch thực tế của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng trên thị trường xuất hiện với tần suất nhiều nhất thông qua thống kê tại một khu vực và trong một khoảng thời gian nhất định, không chịu tác động của các yếu tố gây tăng hoặc giảm giá đột biến, giao dịch có quan hệ huyết thống hoặc có những ưu đãi khác.

Dự thảo giao: “Chính phủ quy định phương pháp định giá đất; quy trình xây dựng bảng giá đất, định giá đất cụ thể; xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất; kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện”.

Bảng giá đất và các trường hợp áp dụng bảng giá đất

Về bảng giá đất, Điều 154, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: Bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm được công bố công khai và áp dụng từ ngày 01/01 của năm.

Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng bảng giá đất, được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để xây dựng bảng giá đất; trình Hội đồng thẩm định bảng giá đất; căn cứ kết quả của Hội đồng thẩm định bảng giá đất trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua bảng giá đất trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định ban hành.

Bảng giá đất được xây dựng theo vị trí. Đối với khu vực có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất thì xây dựng bảng giá đất đến từng thửa đất theo vùng giá trị, thửa đất chuẩn.

Bảng giá đất được áp dụng cho các trường hợp:

Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở của hộ gia đình, cá nhân; chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân;

Tính tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm;

Tính thuế sử dụng đất, thuế đối với các dự án chậm tiến độ hoặc không đưa đất vào sử dụng;

Tính thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân;

Tính tiền sử dụng đất tăng thêm đối với những trường hợp chậm đưa đất vào sử dụng, không đưa đất vào sử dụng;

Tính phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai;

Tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;

Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai;

Tính giá trị quyền sử dụng đất để trả cho người tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước đối với trường hợp đất trả lại là đất Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất có thu tiền sử dụng đất, đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê;

Tính giá khởi điểm đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất.

Làm căn cứ để tính giá thuê đất xây dựng công trình ngầm, xây dựng công trình trên không

Đối với các trường hợp tính thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tính tiền thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm thì giá đất để tính thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tính tiền thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm ổn định trong 05 năm.

Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Các trường hợp áp dụng giá đất cụ thể

Điều 155 (Giá đất cụ thể) quy định, giá đất cụ thể được áp dụng cho các trường hợp sau:

Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất; khi Nhà nước giao đất cho nhà đầu tư trúng đấu thầu dự án có sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền sử dụng đất;

Tính tiền thuê đất trả tiền một lần đối với trường hợp Nhà nước cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, khi Nhà nước cho thuê đất cho nhà đầu tư trúng đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức mà phải nộp tiền thuê đất.

Tính giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà doanh nghiệp cổ phần sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; tính tiền thuê đất đối với trường hợp doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm;

Tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;

Tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết mà ảnh hưởng đến hệ số sử dụng đất; cho phép chuyển hình thức sử dụng đất.

Việc quyết định giá đất cụ thể thực hiện theo quy định sau đây:

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết, thu hồi đất, xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức, xác định giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giá đất cụ thể đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết, thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, cơ quan quản lý đất đai cấp huyện được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể. Cơ quan quản lý đất đai trình Hội đồng thẩm định giá đất thẩm định kết quả tư vấn xác định giá đất; căn cứ kết quả của Hội đồng thẩm định giá đất trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định.

Đối với khu vực đã có bảng giá đất tới từng thửa đất theo vùng giá trị đất, giá thửa đất chuẩn thì việc định giá đất cụ thể được xác định theo bảng giá đất tại thời điểm định giá.

Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các phương pháp để định giá đất cụ thể và quy định chi tiết Điều này.

Hội đồng thẩm định giá đất

Điều 156, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định về Hội đồng thẩm định giá đất.

Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng thẩm định bảng giá đất bao gồm các thành phần sau:

Đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng;

Giám đốc Sở Tài chính làm thường trực Hội đồng; lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở Công Thương, Sở Tư pháp, Cục Thuế tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh;

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể cấp tỉnh bao gồm các thành phần sau:

Giám đốc Sở Tài chính làm Chủ tịch Hội đồng;

Lãnh đạo Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở Công Thương, Sở Tư pháp, Cục Thuế tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh;

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể cấp huyện bao gồm các thành phần sau:

Lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện làm Chủ tịch Hội đồng;

Trưởng Phòng Tài chính – Kế hoạch làm thường trực Hội đồng; lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, các phòng, ban chuyên môn có liên quan; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện;

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định.

Hội đồng thẩm định bảng giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể quyết định thành lập Tổ giúp việc cho Hội đồng, được thuê tổ chức tư vấn định giá đất để tư vấn thẩm định giá đất.

Hội đồng thẩm định giá đất làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số; Chủ tịch và các thành viên chịu trách nhiệm cá nhân về ý kiến của mình. Hội đồng thực hiện thẩm định việc tuân thủ nguyên tắc, việc áp dụng phương pháp, trình tự, thủ tục định giá đất, kết quả thu thập thông tin, tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, khách quan trong quá trình định giá và chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định theo quy định của pháp luật.

Kết quả thẩm định giá đất của Hội đồng là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định Bảng giá đất, giá đất cụ thể.

Tư vấn xác định giá đất

Điều 157, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định về tư vấn xác định giá đất.

Theo đó, tư vấn xác định giá đất được thực hiện trong các trường hợp: Khi xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất và giá đất cụ thể; khi giải quyết khiếu nại về giá đất theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các bên có liên quan.

Dự thảo giao Chính phủ quy định điều kiện hoạt động của tư vấn xác định giá đất, hành nghề tư vấn xác định giá đất.

Việc xác định giá đất của tư vấn xác định giá đất phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân theo nguyên tắc, phương pháp định giá đất quy định tại Điều 153 của Luật này.

Giá đất do tư vấn xác định là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định giá đất.

Quyền và nghĩa vụ của tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất

Điều 158, quy định tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất có các quyền: Thực hiện tư vấn xác định giá đất theo quy định của Luật này, Luật giá và quy định khác của pháp luật có liên quan;

Yêu cầu bên thuê tư vấn cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc tư vấn xác định giá đất; được nhận tiền dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng;

Đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng tư vấn xác định giá đất khi bên thuê tư vấn vi phạm điều kiện do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật;

Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất có nghĩa vụ: Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả tư vấn xác định giá đất; Thực hiện thỏa thuận theo hợp đồng tư vấn xác định giá đất với bên thuê tư vấn;

Chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tổ chức, kết quả hoạt động tư vấn xác định giá đất định kỳ hàng năm hoặc trong trường hợp đột xuất;

Thực hiện nghĩa vụ về thuế và các nghĩa vụ tài chính khác có liên quan theo quy định của pháp luật;

Đăng ký danh sách định giá viên và việc thay đổi, bổ sung danh sách định giá viên với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi tổ chức tư vấn xác định giá đất đặt trụ sở chính;

Lưu trữ hồ sơ, tài liệu về kết quả tư vấn xác định giá đất; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Theo Báo mới.

Kinh doanh phòng trọ có phải xin giấy phép PCCC?

Theo luật sư, đối với những dự án nhà trọ có quy mô nhỏ chỉ khuyến khích chấp hành phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, nếu cơ sở được trang bị đầy đủ thiết bị phòng cháy, chữa cháy thì vẫn sẽ đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Gia đình tôi đang kinh doanh cho thuê phòng trọ nhưng không biết mình có thuộc đối tượng bắt buộc phải xin giấy phép phòng cháy chữa cháy và lắp đặt các thiết bị phòng cháy chữa cháy không? Vậy nếu có thì gia đình tôi phải tiến hành những thủ tục nào?

Chị Chu Thị Hồng Hà (An Dương, Hải Phòng)

Trả lời: Về vấn đề này, luật sư Nguyễn Hào Hiệp – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiệp Thành, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

Căn cứ pháp lý:

Luật Phòng cháy chữa cháy năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2013

Nghị định số: 136/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng cháy và chữa cháy và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy

Nghị định số: 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình

Hình minh họa

Thứ nhất, về vấn đề xin giấy phép về phòng cháy chữa cháy đối với kinh doanh cho thuê phòng trọ

Khoản 1 Điều 23 Luật Phòng cháy, chữa cháy năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2013: “Công trình cao tầng phải có thiết bị chống tụ khói, lan truyền khói và hơi độc do cháy sinh ra; phải có phương án thoát nạn, bảo đảm tự chữa cháy ở những nơi mà phương tiện chữa cháy bên ngoài không có khả năng hỗ trợ”Vì vậy, các công trình cao tầng phải được lắp đặt thiết bị phòng cháy, chữa cháy.

Theo Phụ lục II về Danh mục cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ
kèm theo Nghị định số: 136/2020/NĐ-CP thì:

“Nhà chung cư, nhà tập thể, nhà ở ký túc xá cao từ 7 tầng trở lên hoặc có tổng khối tích từ 10.000 m3 trở lên; nhà hỗn hợp cao từ 5 tầng trở lên hoặc có tổng khối tích từ 5.000 m3 trở lên” .

Do bạn không thông tin rõ về tình trạng, công trình xây dựng gia đình bạn mà kinh doanh phòng trọ nên căn cứ theo các quy định trên, nếu công trình của bạn thuộc trường hợp đã nêu thì bạn phải tiến hành thực hiện thủ tục xin giấy phép phòng cháy, chữa cháy đối với hoạt động kinh doanh cho thuê phòng trọ của mình. Trường hợp gia đình bạn kinh doanh nhà trọ thuộc diện phải tiến hành thủ tục xin giấy phép phòng cháy, chữa cháy nêu trên sẽ bị xử phạt tùy vào từng hành vi vi phạm căn cứ theo quy định tại Nghị định số: 144/2021/NĐ-CP.

Đối với những dự án nhà trọ có quy mô nhỏ hơn chỉ khuyến khích chấp hành phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, nếu cơ sở được trang bị đầy đủ thiết bị phòng cháy, chữa cháy thì vẫn sẽ đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Thứ hai, thủ tục thực hiện xin giấy phép phòng cháy chữa cháy đối với kinh doanh nhà trọ

Về hồ sơ xin giấy phép phòng cháy chữa cháy cho nhà trọ thuộc diện thẩm duyệt phòng cháy chữa cháy:

Đối với nhà trọ thuộc diện thẩm duyệt thiết kế phòng cháy chữa cháy khi xin thẩm duyệt cần những giấy tờ sau:

Đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đã đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy.

Giấy chứng nhận thẩm quyền về phòng cháy và chữa cháy

Biên bản kiểm tra an toàn về phòng cháy chữa cháy đối với các cơ sở và phương tiện giao thông cơ giới khác.

Bản thống kê toàn bộ những phương tiện phòng cháy chữa cháy và các phương tiện cứu người đã trang bị.

Cùng một số các giấy tờ khác có liên quan

Về thủ tục xin giấy phép phòng cháy chữa cháy cho nhà trọ thuộc diện thẩm duyệt phòng cháy chữa cháy

Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ đầy đủ như đã nêu

Bước 2: Nộp hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xem xét và phê duyệt

Bước 3: Nộp phí thẩm duyệt thiết kế và nghiệm thu

Bước 4: Nhận kết quả

Nơi cấp: trụ sở Phòng/Cục cảnh sát phòng cháy chữa cháy công an tỉnh/thành phố mà bạn thực hiện hoạt động kinh doanh phòng trọ

 

 

Đâu là điểm nghẽn cần gỡ trong cải tạo chung cư cũ?

Không tìm được tiếng nói chung với chủ đầu tư, nhiều người dân vẫn cố gắng bám trụ lại các khu chung cư cũ, dù nguy cơ xuống cấp nghiêm trọng, có thể đổ sập bất cứ lúc nào.

Chung cư cũ xuống cấp nghiêm trọng, vì sao dân không muốn di dời?

Hà Nội vừa có quyết định di dời khẩn cấp ngay trong quý I với 4 khu chung cư cũ ở cấp độ D, cấp cực kỳ nguy hiểm, có thể đổ sập bất kỳ lúc nào. Đây được coi là động thái quyết liệt trước tình trạng chậm trễ cải tạo nhà chung cư cũ nhiều năm nay.

10 khu chung cư cũ ưu tiên triển khai đợt 1 gồm: 4 khu có nhà nguy hiểm cấp D, tức là nguy hiểm mức độ cao nhất. Đó là: chung cư Giảng Võ, Thành Công, Ngọc Khánh, Bộ Tư pháp. Và 6 khu chung cư xuống cấp khác là: Kim Liên, Trung Tự, Khương Thượng, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Nghĩa Tân.

Các quận: Ba Đình, Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy được thành phố yêu cầu khảo sát hiện trạng, kiểm định, lập quy hoạch, hoàn thành chậm nhất trong quý II; và tổ chức lựa chọn chủ đầu tư dự án trong quý 3.

Một trong những chung cư được coi là xuống cấp, thuộc diện nguy hiểm phải di dời là nhà G6A Thành Công. Qua 7 năm, 23 hộ dân ở nhà G6A Thành Công chưa di dời dù tòa nhà đã được cơ quan kiểm định công bố là nhà nguy hiểm cấp độ cao nhất.

Mới đây, UBND quận Ba Đình đã tổ chức đối thoại với các hộ nhà G6A. Đại diện các hộ dân tham gia đối thoại đều nói ủng hộ chủ trương cải tạo lại chung cư cũ của nhà nước và sẵn sàng di chuyển khỏi chung cư G6A để chính quyền phá đi xây dựng lại nếu những băn khoăn được giải đáp thấu đáo. Ông Nguyễn Trọng Hùng, cư dân nhà G6A, bày tỏ lo lắng “ra đi không biết ngày về” vì nhiều hộ ở chung cư khác đi tạm cư để xây lại tòa nhà nhưng đi 5-10 năm vẫn chưa xây dựng xong.

Nhìn nhận nguyên nhân các dự án cải tạo chung cư cũ ở Hà Nội gặp nhiều khó khăn, PGS.KTS Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Hà Nội cho rằng hiện còn có rất nhiều vướng mắc. Thứ nhất, các chủ đầu tư lập quy hoạch đều dẫn đến việc tăng dân số khu vực lên, đặc biệt, muốn thực hiện được việc này thì phải điều chỉnh quy hoạch. Mật độ dân số quá cao, trong khi đó chủ trương ở nội đô cần giảm dân số, tuy nhiên hiện nay trong quy hoạch tổng mặt bằng thì lại tăng lên.

Thứ hai, hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật như là giao thông, điện nước, nhà trường không đầu tư mới mà khai thác các công trình lân cận xung quanh nên mất cân bằng. Thứ ba, chủ đầu tư dự án chú trọng vào việc kinh doanh để tạo ra lợi nhuận chứ chưa tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và chủ đầu tư.

Nhiều chung cư cũ ở Hà Nội đã xuống cấp nghiêm trọng.

Mục tiêu hướng đến của chủ đầu tư là xây các trung tâm thương mại kết hợp vui chơi giải trí. Nếu nhà nước yêu cầu xây dựng công trình phải tạo ra kiến trúc cảnh quan và gắn với quy hoạch phân khu, mà không phát triển được mục tiêu trên, chủ đầu tư sẽ không mặn mà.

TP Hà Nội đã có chỉ đạo đối với các chủ đầu tư khi lập quy hoạch phải có ít nhất 2 phương án đề xuất, trong số 19 dự án nêu ra thì đã có một số phương án lựa chọn quy hoạch thứ 2, nhưng vẫn vướng mắc ở việc tăng dân số và làm biến đổi quy hoạch chung cảnh quan trong khu vực. Những vấn đề này cần phải giải quyết bằng việc thành phố nên có ưu đãi bằng những chính sách đặc biệt và tổ chức quy hoạch chung. Tìm sự hài hòa về hạ tầng, và phải có chính sách ưu đãi cho những người dân sống trong khu chung cư cũ di dời đi chỗ khác ở để giảm dân số.

“Nhiều năm nay đã giao các cho chủ đầu tư cải tạo lại các dự án chung cư cũ xuống cấp nhưng vẫn “giẫm chân tại chỗ” vì chưa có chính sách nào tạo ra sự hài hòa ba bên, nếu để chủ đầu tư lập quy hoạch thì họ lại muốn thay đổi so với quy hoạch chung để kinh doanh tạo ra lợi nhuận, đây là cái bất cập nhất”, ông Nghiêm nói.

Hiện nay việc cải tạo lại các khu chung cư cũ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc đặc biệt là vấn đề về dân số. Qua điều tra khảo sát, hiện dân số tại các khu chung cư cũ cao hơn nhiều so với quy hoạch chung và quy hoạch phân khu. Tại các khu chung cư Giảng Võ, Thành Công, Ba Đình được cấp phép xây dựng trên 20 tầng với khoảng 10 nghìn người tuy nhiên hiện nay dân số đã hơn 10 nghìn người.

Khó khăn vướng mắc tiếp theo trong vấn đề này chính là ở quy định pháp luật yêu cầu các chủ đầu tư cân đối tài chính, nhưng nếu để tự cân đối theo quy hoạch phân khu thì doanh nghiệp sẽ lỗ lớn theo tính toán có thể lỗ tới hàng nghìn tỉ đồng… Nghị định của chính phủ chưa cụ thể bởi ngoài chung cư còn xen kẽ nhiều nhà dân xây dựng riêng lẻ và đa phần không có sổ nhưng khi chủ đầu tư làm họ đều đòi đền bù giá cao.

Nên để người dân tự xây dựng?

Theo TSKH. Đào Ngọc Nghiêm, từ thực trạng sau cả 2 thập kỷ mà Hà Nội mới chỉ cải tạo được khoảng 1% nhà chung cư cũ đang đặt ra bài toán cần có cơ chế chính sách đặc thù cho Thủ đô để tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và chủ đầu tư.

Để làm được điều này, cần quy hoạch cải tạo, tái thiết chung cư cũ cần phải được lập quy hoạch cho toàn khu, xác định rõ phạm vi nghiên cứu và phạm vi lập quy hoạch. Quy hoạch cải tạo khu chung cư cũ phải tuân thủ quy hoạch của Thành phố (quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch ngành, với các tiêu chí chính là: Dân số, không gian và hệ số sử dụng đất), cấu trúc khu chung cư sau cải tạo không nhất thiết phải là mô hình đơn vị ở phổ biến mà có thể là khu đô thị đa chức năng. Việc điều chỉnh quy hoạch cần xem xét vị trí đặc thù.

Thành phố cần tổ chức xây dựng nhiệm vụ thiết kế, lấy ý kiến cộng đồng, tổ chức thẩm định và phê duyệt nhiệm vụ thiết kế. Để có nhiệm vụ thiết kế phù hợp cần phân loại các khu chung cư hiện nay, căn cứ diện tích, vị trí, lợi thế, quy mô dân số để xác định các chỉ tiêu kỹ thuật đặc thù. Có thể xem xét xã hội hóa việc lập quy hoạch chi tiết và dự án thông qua lựa chọn chủ đầu tư hoặc đấu thầu.

Các đồ án quy hoạch chi tiết đã lập cần công bố công khai, lấy ý kiến của cộng đồng dân cư khu vực quy hoạch và ý kiến rộng rãi của các cơ quan, đơn vị tổ chức. Từ những quy hoạch chi tiết được phê duyệt cần xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện với xây dựng ưu tiên các ngôi nhà xuống cấp nguy hiểm, đồng thời ban hành quy định về phân công, phân công quản lý và trách nhiệm (nên hình thành đơn vị quản lý chuyên trách về cải tạo chung cư).

PGS Đào Ngọc Nghiêm cho rằng, để giải phóng mặt bằng, cải tạo chung cư cũ nhanh, cần có hành lang pháp lý để cho cộng đồng cư dân tự xây dựng. Việc để cộng đồng cư dân tự xây dựng đã có kết quả rất tốt ở các nước châu Âu. Hình thức này thúc đẩy được ý thức, trách nhiệm và bảo vệ quyền lợi của chính người dân, người dân sẽ đồng tình ủng hộ. Vừa nhanh lại vừa đáp ứng mục tiêu về cải tạo chung cư cũ.

Tuy nhiên, theo ông Nghiêm, việc để cộng đồng cư dân tự xây dựng đang thiếu hành lang pháp lý. Luật Nhà ở có quy định, cải tạo chung cư có cho phép một số mô hình như: Nhà nước chọn chủ đầu tư, đấu thầu dự án… chưa đề cập tới quy định để cộng đồng cư dân tự xây dựng. Do đó, ông Nghiêm kiến nghị nên bổ sung quy định này vào Luật Nhà ở, làm cơ sở pháp lý thực hiện, đẩy nhanh hiệu quả triển khai xây dựng chung cư cũ.

Trước đó, Sở Xây dựng Hà Nội thống kê, hiện có 1.579 chung cư cũ (2 – 5 tầng), tập trung trong 76 khu với khoảng 1.300 nhà còn là nhà riêng lẻ, chủ yếu được xây dựng trước năm 1954 và từ năm 1960-1994. Trong đó 4 quận nội thành có tới gần 1.000 nhà chung cư. Hầu hết các chung cư cũ đã hết niên hạn sử dụng, bị xuống cấp nghiêm trọng, có nguy cơ sụp đổ và không đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người dân.

Theo Báo mới.

Hải Phòng có thêm 3 dự án vốn đầu tư gần 10.000 tỷ đồng

TP Hải Phòng khẳng định sức hút khi ngay từ đầu năm đã thu hút thêm gần 10.000 tỷ đồng đầu tư 3 dự án mới.

Gần 10.000 tỷ đồng vốn đầu tư vào Hải Phòng 

Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị, UBND TP. Hải Phòng đã được trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 3 dự án mới với tổng vốn gần 10.000 tỷ đồng.

Trong đó, Dự án Đầu tư xây dựng Khu nhà ở xã hội tại Tổng kho 3 Lạc Viên, 142 Lê Lai do Công ty cổ phần Thái-Holding làm chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư gần 4.900 tỷ đồng.

Mục tiêu của Dự án là đầu tư xây dựng khu nhà ở xã hội để bán và cho thuê (bán tối đa 80%, cho thuê tối thiểu 20%), nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển về nhà ở xã hội của Thành phố và Nghị quyết số 04/NQ-HĐND ngày 12/4/2022 của HĐND Thành phố về Đề án xây dựng nhà ở xã hội kết hợp giải quyết nhà ở cho các hộ dân sinh sống tại các chung cư cũ trên địa bàn.

Dự án nghiên cứu, phát triển và sản xuất Cell Pin 1 do Công ty cổ phần Giải pháp năng lượng VinES làm chủ đầu tư, với tổng vốn đầu tư gần 3.300 tỷ đồng.

Dự án sản xuất pin và ắc quy tại nhà xưởng thuê trong Tổ hợp sản xuất ô tô VinFast, đảo Cát Hải, huyện Cát Hải, thuộc Khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải. Nhà xưởng diện tích khoảng 27.000m³; sản phẩm, dịch vụ cung cấp là Cell pin và các linh phụ kiện đi kèm với công suất thiết kế 2,2 GWh/năm.

Dự án khai thác tàu container do Zim Integrated shipping services Ltd., (Isarel) và Công ty cổ phần Xếp dỡ Hải An làm chủ đầu tư. Với tổng vốn đầu tư 1.383,3 tỷ đồng, Dự án hình thành với mục tiêu cung cấp các loại hình dịch vụ vận tải biển, dự kiến vận hành, khai thác từ quý IV/2023.

Theo Báo mới.

Chuyển nhượng bất động sản có thể sẽ phải thanh toán qua ngân hàng

Bộ Tài chính sẽ tham mưu, đề xuất với Chính phủ bổ sung quy định thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại Điều 16 Luật kinh doanh Bất động sản.

Bộ Tài chính sẽ tham mưu, đề xuất với Chính phủ bổ sung quy định thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại Điều 16 Luật kinh doanh Bất động sản.

Thông tin trên được Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nêu tại báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ ba, vừa đến tay các vị đại biểu Quốc hội.

Các biện pháp chống thất thu thuế, nhất là trong hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản là nội dung nhỏ nằm trong nhóm vấn đề Quốc hội quyết định chất vấn người đứng đầu ngành tài chính, bắt đầu từ sáng 8/6.

Đây cũng là vấn đề được một số vị đại biểu Quốc hội nêu tại phiên thảo luận về kinh tế, xa hội với phân tích, khi kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản, người dân chịu mức thuế cao hơn, theo giá thị trường, nhưng khi bị thu hồi đất, đền bù thì áp theo giá nhà nước dẫn đến những bất bình đẳng trong mối quan hệ này.

Bộ trưởng Hồ Đức Phớc, trong báo cáo mới nhất cho biết, thời gian qua, Bộ Tài chính đã triển khai nhiều giải pháp chống thất thu thuế trong hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản.

Cụ thể Bộ Tài chính có văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan có liên quan rà soát, ban hành kịp thời quyết định điều chỉnh bổ sung bảng giá đất cụ thể đối với từng vị trí, đảm bảo phù hợp với giá giao dịch thực tế trên thị trường và giá bán của chủ đầu tư.

Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan thuế không được gây khó khăn, phiền hà cho người nộp thuế trong quá trình xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản. Đồng thời đã quán triệt cán bộ, công chức ngành thuế tham gia vào công tác xử lý hồ sơ chuyển nhượng bất động sản thực hiện nghiêm túc các quy định về trình tự, thủ tục xử lý hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính và quy trình làm việc trực tiếp với người nộp thuế theo quy định và có cơ chế giám sát cán bộ, công chức trong quá trình tuyên truyền, hướng dẫn việc kê khai giá chuyển nhượng bất động sản cho người nộp thuế. Bộ cũng chỉ đạo các Cục Thuế triển khai rà soát các hồ sơ chuyển nhượng bất động sản và yêu cầu giải quyết, xử lý kịp thời cho người dân và doanh nghiệp đúng theo quy định của pháp luật.

Kết quả đạt, số thu thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản năm 2021 đạt 21 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 4,9 nghìn tỷ đồng (tỷ lệ tăng 30%) so với năm 2020. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2022, kết quả thu từ thuế thu nhập cá nhân của hoạt động chuyển nhượng bất động sản dự kiến đạt được 16 nghìn tỷ đồng; tăng 68,6% so với 5 tháng đầu năm 2021, tương ứng tăng 6,6 nghìn tỷ đồng.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng chỉ ra hạn chế trong quá trình thực hiện, đó là hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế.

Công tác thu thuế đối với hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản còn gặp một số khó khăn, như các chính sách liên quan đến đất đai đã được quy định, các văn bản này được quy định bởi nhiều cơ quan, ban ngành quản lý nhà nước, các quy định này chưa đồng bộ nên việc xác định giá thị trường của bất động sản vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Khó nhất hiện nay là Luật Đất đai quy định bảng giá đất ổn định 5 năm, trong khi thực tế giá thị trường bất động sản lại biến động liên tục, vì vậy dẫn đến việc giá đất do UBND cấp tỉnh quy định không sát với giá của thị trường.

Công tác phối hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan cũng gặp không ít khó khăn, Bộ trưởng nhìn nhận.

Khó khăn tiếp theo là văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định cơ chế kiểm soát dòng tiền đối với các giao dịch chuyển nhượng bất động sản. Ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của người dân chưa cao. Nhận thức chưa đầy đủ về chính sách pháp luật thuế và pháp luật có liên quan, chưa nhận thức được hậu quả khi khai thuế với giá không đúng với giá thực tế chuyển nhượng.

Văn phòng đăng ký đất đai chuyển hồ sơ đến cơ quan thuế thường sát ngày hẹn trả kết quả hoặc chậm dẫn đến áp lực về thời gian trả kết quả xác định nghĩa vụ tài chính về đất, gây chậm trễ về thủ tục hành chính, theo Bộ trưởng cũng là một khó khăn.

Thời gian tới, Bộ trưởng cho biết sẽ sẽ tiếp tục tham mưu, đề xuất với Chính phủ hai giải pháp. Một là tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài chính để sửa đổi, bổ sung đảm bảo thống nhất, đồng bộ.

Giải pháp thứ hai là bổ sung quy định thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại Điều 16 Luật kinh doanh bất động sản số 66/2014/QH13 ngày 25/11/2014.

Theo Báo mới.

Đang bị tạm giam, công chứng hợp đồng bán nhà ra sao?

Theo chuyên gia, người đang bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù vẫn được quyền mua bán, chuyển nhượng nhà đất.

Như Pháp Luật TP.HCM đã đưa tin, VKSND quận Phú Nhuận (TP.HCM) vừa qua đã hoàn tất cáo trạng, truy tố bị can Nguyễn Trần Hoàng Phong (tài xế lái xe Mercedes tông nữ tiếp viên hàng không) để tòa cùng cấp chuẩn bị xét xử sơ thẩm lần hai.

Trước đó, vào ngày 22-4-2021, TAND TP.HCM đã xử phúc thẩm và tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để làm rõ nguồn gốc hình thành căn hộ ở chung cư Dream Home (phường 14, quận Gò Vấp) là tài sản của ai để đảm bảo việc bồi thường cho các bị hại.

Một điểm đáng chú ý trong vụ án này được nhiều người quan tâm là mặc dù đang bị tạm giam nhưng Phong vẫn có thể ký công chứng hợp đồng để sang tên căn hộ nêu trên cho mẹ mình. Điều này đặt ra các vấn đề pháp lý về việc một người đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù thì liệu có được mua bán, chuyển nhượng nhà đất hay không và thủ tục ra sao?

Phong đã ký hợp đồng để sang tên căn hộ cho mẹ trong thời gian bị tạm giam. 

Đang bị giam, giữ vẫn có thể bán nhà

Liên quan đến vấn đề nêu trên, tại Điều 122 Luật Nhà ở quy định hợp đồng mua bán nhà ở phải được công chứng, chứng thực; trừ trường hợp mua bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở phục vụ tái định cư…

Trong đó, điều kiện để nhà ở được mua bán bao gồm: Có sổ hồng (trừ một số trường hợp như mua bán nhà ở hình thành trong tương lai…); không thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu; đang trong thời hạn sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu nhà ở có thời hạn; không bị kê biên để thi hành án hoặc không bị kê biên để chấp hành quyết định hành chính đã có hiệu lực và không thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở.

Tương tự, Luật Đất đai 2013 cũng quy định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp một bên là tổ chức kinh doanh bất động sản. Và nếu đất đã được cấp sổ, không bị tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án và đang trong thời hạn sử dụng đất thì đủ điều kiện chuyển nhượng.

Như vậy, trường hợp nhà đất có đủ các điều kiện nêu trên thì chủ tài sản dù đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù vẫn được quyền mua bán, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.

Khi đó, theo khoản 2 Điều 44 Luật Công chứng 2014, việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở và tại chính cơ sở giam giữ, nơi chủ tài sản đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc đang chấp hành án phạt tù.

Đồng quan điểm, TS Thái Thị Tuyết Dung, Trường ĐH Kinh tế – Luật TP.HCM, cho biết luật không cấm người đang bị tạm giữ, tạm giam chuyển nhượng bất động sản. Khi có yêu cầu công chứng ngoài trụ sở thì người có yêu cầu làm đơn gửi văn phòng công chứng hoặc phòng công chứng nêu rõ lý do.

Kèm theo đơn là hồ sơ pháp lý (gồm CMND/CCCD, hộ khẩu, sổ hồng, kết luận điều tra/cáo trạng/bản án có hiệu lực/lệnh tạm giam/sổ thăm nuôi, gặp mặt…) để công chứng viên xem xét và có quyết định giải quyết hay từ chối.

Trong trường hợp hồ sơ phù hợp với quy định của pháp luật (được phép công chứng) thì trưởng văn phòng công chứng hoặc phòng công chứng sẽ gửi công văn kèm theo hồ sơ pháp lý và bản dự thảo văn bản dự kiến công chứng đến cơ quan có thẩm quyền cho phép gặp mặt người đang bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù.

“Nếu những cơ quan này xem xét hồ sơ và đồng ý thì sẽ ra lệnh trích xuất hoặc giải quyết cho công chứng viên vào gặp mặt để thực hiện thủ tục công chứng và xác nhận vào đơn (trong trường hợp cần thiết)” – TS Dung nói.

Ủy quyền mua bán sẽ thuận lợi hơn

Khi nhà đất đủ điều kiện mua bán, chuyển nhượng thì chủ sở hữu có thể trực tiếp ký hợp đồng hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện các thủ tục. Cách thức công chứng viên chứng nhận hợp đồng ủy quyền tại nơi chủ sở hữu tài sản đang bị tạm giam, chấp hành án phạt tù được thực hiện tương tự như trên.

Tuy nhiên, theo TS Thái Thị Tuyết Dung, việc ủy quyền sẽ phù hợp và thuận lợi hơn, đảm bảo có sự thương lượng, thỏa thuận giữa cả bên mua và bên bán.

TS Dung cho biết nếu lựa chọn phương án hai bên cùng ký trực tiếp vào hợp đồng thì không đảm bảo yếu tố thương lượng, thỏa thuận giữa hai bên của hợp đồng. Bởi về lý thuyết, trại giam có thể cho bị can, bị cáo, phạm nhân được gặp mặt bên còn lại để thỏa thuận nhưng điều này hiếm khi xảy ra (trừ người thân, luật sư, công chứng viên…).

Đã kê biên căn hộ của tài xế xe Mercedes

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 14-2-2022, Cơ quan CSĐT Công an quận Phú Nhuận (TP.HCM) đã ra lệnh kê biên đối với căn hộ là tài sản của Nguyễn Trần Hoàng Phong để đảm bảo trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các bị hại.

Trao đổi với PV Pháp Luật TP.HCM về thông tin này, chị Nguyễn Thị Bích Hường (nữ tiếp viên hàng không – bị hại của vụ án) cho biết: “Tôi vui mừng vì cơ quan chức năng đã kê biên căn hộ, có như vậy thì mới có cơ sở để bồi thường cho chúng tôi”.

Ngoài ra, chị Hường mong phiên tòa sắp tới sẽ xét xử công tâm, đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi chính đáng của những bị hại.

Theo Báo mới.