- Cơ sở pháp lý
- Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ số 42/2019/QH14;
- Thông tư 01/2007/TT-BKHCN ngày 14 tháng 02 năm 2007 do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành hướng dẫn thi hành Nghị định 103/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp;
- Nội dung
- Nhãn hiệu bị từ chối bảo hộ vì mang tính mô tả
Một thương hiệu để đặc trưng cho loại sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh là điều mà hầu hết các doanh nghiệp thường hay lựa chọn. Làm sao để người tiêu dùng nhìn/nghe thấy logo, thương hiệu là sẽ biết được ngay logo/thương hiệu đó sẽ dùng cho sản phẩm/dịch vụ nào.
Bên cạnh đó, để tăng hiệu quả marketing và uy tín cho sản phẩm/dịch vụ mang thương hiệu, các doanh nghiệp còn thêm các câu từ có tính chất miêu tả về chất lượng và tiêu chuẩn như:
Để độc quyền sử dụng và ngăn cấm người khác vi phạm thương hiệu của mình, theo quy định pháp luật, các doanh nghiệp cần tiến hành thủ tục nộp đơn đăng ký nhãn hiệu. Thương hiệu chỉ được độc quyền khi đơn đăng ký đã trải qua các giai đoạn thẩm định và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký (Văn bằng bảo hộ).
Một trong các trường hợp phổ biến làm cho đơn đăng ký nhãn hiệu bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ là nhãn hiệu có tính mô tả sản phẩm/dịch vụ. Liên quan đến tính mô tả của nhãn hiệu, theo Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định như sau:
“Điều 74. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu
…
- Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
…
- c) Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
- d) Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;…”
Cụ thể hóa nội dung trên, Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN sửa đổi năm 2016 cũng có quy định về những dấu hiệu chữ, dấu hiệu hình sau đây bị coi là không có khả năng phân biệt:
Một từ hoặc một tập hợp từ mang nội dung mô tả chính hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu như dấu hiệu chỉ dẫn về thời gian, địa điểm, nguồn gốc địa lý (trừ trường hợp nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý của hàng hoá hoặc nhãn hiệu tập thể, ví dụ: đào Nhật Tân, xoài cát Hòa Lộc,… ), phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất (trừ trường hợp nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu chứng nhận chất lượng của hàng hoá, dịch vụ, ví dụ: Hàng Việt Nam chất lượng cao, nhãn hiệu chứng nhận rau Đà Lạt,…), thành phần, công dụng, giá trị của hàng hoá, dịch vụ;
Một từ hoặc một tập hợp từ có ý nghĩa mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ nhãn hiệu.
Hình vẽ, hình ảnh mang tính mô tả chính hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu; địa điểm, phương pháp sản xuất, nguồn gốc địa lý, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Khi thực hiện thủ tục đăng ký nhãn hiệu, các nhãn hiệu chỉ bao gồm yếu tố mô tả thường sẽ bị cơ quan đăng ký ra thông báo từ chối bảo hộ.
- Có trường hợp ngoại lệ nào mà nhãn hiệu mang tính mô tả nhưng vẫn được bảo hộ hay không?
Mặc dù đã quy định rõ tại Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ về các trường hợp bị coi là không có tính phân biệt, nhưng nhãn hiệu mang tính mô tả vẫn có thể được bảo hộ nếu “dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu”.
Để được áp dụng ngoại lệ này, người nộp đơn phải cung cấp hai loại bằng chứng:
– Bằng chứng về việc sử dụng một cách rộng rãi nhãn hiệu đó (thời gian bắt đầu sử dụng, phạm vi, mức độ sử dụng hiện nay…, trong đó nhãn hiệu chỉ được coi là “được sử dụng” khi việc sử dụng đó được tiến hành trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, quảng cáo, tiếp thị hợp pháp)
– Bằng chứng về khả năng phân biệt của nhãn hiệu đối với hàng hoá, dịch vụ liên quan của chủ nhãn hiệu. Trong trường hợp này, nhãn hiệu đó chỉ được thừa nhận là có khả năng phân biệt khi được thể hiện ở dạng đúng như dạng mà nó được sử dụng liên tục và phổ biến trong thực tế.
Trên đây là nội dung quy định về nhãn hiệu bị từ chối bảo hộ vì mang tính mô tả. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.
Trân trọng!
Luật gia Đỗ Trần Khởi
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com