Cần làm gì khi bị mất sổ đỏ?

Tôi có việc cần dùng đến sổ đỏ nhà đứng tên mình, nhưng phát hiện sổ đã mất không rõ nguyên nhân. Giờ tôi phải làm sao, thưa luật sư? Nếu bị kẻ gian lấy mất thì tôi có bị mất nhà không? (Chị Nhung – Tây Hồ, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Trường hợp của bạn,  Luật sư chia làm hai tình huống:

Tình huống 1: Có kẻ gian đã lấy mất sổ đỏ để cầm cố (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) của bạn và đã thực hiện một giao dịch nào đó. Người này không phải là chủ sở hữu của mảnh đất được ghi nhận trong sổ đỏ đó nên tại Điều 123 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.”

Theo đó, giao dịch dân sự của người này thực hiện có mục đích và nội dung trái đạo đức xã hội vi phạm điều cấm của pháp luật thì đều vô hiệu. Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. 

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Do đó, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên và các bên sẽ trả cho nhau những gì đã nhận. Vì thế, hành vi lấy sổ đỏ của bạn làm gì đó của kẻ gian khi không có sự đồng ý của chủ sở hữu mảnh đất là hành vi vi phạm pháp luật.

Tình huống này, bạn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch dân sự giữa kẻ gian và người nào đó đang cầm sổ đỏ của bạn là vô hiệu. Sau đó, bạn sẽ lấy lại được sổ đỏ.

Tình huống 2: Nếu mất sổ đỏ thật thì bạn cần thực hiện các bước sau:

Bước 1: Bạn đến Công an xã, phường nơi mất Sổ đỏ làm thủ tục trình báo sự việc trên và đề nghị cấp Giấy tờ xác nhận việc mất Giấy chứng nhận của công an cấp xã, phường nơi mất.

Bước 2: Căn cứ vào Khoản 1, Điều 77 Nghị định 43/2014/NĐ-CP: “Hộ gia đình và cá nhân, cộng đồng dân cư phải khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc bị mất Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết thông báo mất Giấy chứng nhận tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn”.

Vì vậy, bạn phải làm đơn trình báo việc mất sổ đỏ với Ủy ban nhân dân (UBND) xã/phường nơi có đất để khai báo về việc Sổ đỏ. UBND xã/phường sẽ niêm yết thông báo mất Sổ đỏ tại trụ sở của UBND xã/phường nhằm mục đích tìm kiếm trong thời hạn 30 ngày.

Bước 3. Sau thời hạn niêm yết nếu vẫn không tìm được Sổ đỏ thì bạn tiếp tục nộp một bộ hồ sơ đề nghị cấp lại Sổ đỏ đến Văn phòng đăng ký đất đai.

Hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau:

– Đơn đề nghị cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận theo Mẫu số 10/ĐK;

– Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp (đối với trường hợp cấp đổi) hoặc Bản sao hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thay cho bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp cấp đổi Giấy chứng nhận sau khi dồn điền đổi thửa, đo đạc lập bản đồ địa chính mà Giấy chứng nhận đã cấp đang thế chấp tại tổ chức tín dụng;

– Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc đã niêm yết thông báo mất giấy trong thời gian 15 ngày đối với hộ gia đình và cá nhân; giấy tờ chứng minh đã đăng tin 03 lần trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương về việc mất Giấy chứng nhận đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, cá nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; trường hợp mất Giấy chứng nhận do thiên tai, hỏa hoạn phải có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc thiên tai, hỏa hoạn đó. (đối với trường hợp cấp lại);

– Bản sao các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật (nếu có);

Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; lập hồ sơ trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký cấp lại Sổ đỏ; chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai và trao Sổ đỏ cho người được cấp hoặc gửi cho UBND cấp xã/phường để trao đổi với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã/phường.

Thời hạn Cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng bị mất không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ (điểm q khoản 2 Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ-CP).

Trên đây là nội dung liên quan đến việc cần làm khi bị mất sổ đỏ. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

 

Cơ quan tố tụng sẽ xem xét các xung đột trên mạng về hoạt động từ thiện

Theo Viện trưởng VKSND Tối cao Lê Minh Trí khẳng định, thời gian tới các cơ quan tố tụng sẽ xem xét, xử lý hành vi tranh chấp, xung đột trên mạng xã hội liên quan đến hoạt động từ thiện.

Ngày 24/10, Quốc hội tiếp tục thảo luận trực tuyến về công tác của Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao (TAND), Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (KSND) và các báo cáo của Chính phủ về phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật; thi hành án; phòng chống tham nhũng năm 2021.

Phát biểu tại điểm cầu ở tỉnh Đồng Tháp, đại biểu Phạm Văn Hòa nêu ý kiến về hoạt động từ thiện của nhóm nghệ sĩ thời gian qua. “Hoạt động từ thiện của nhóm nghệ sĩ, dư luận rất quan tâm, cần phải làm rõ để công khai, minh bạch”, đại biểu Hòa nói.

Đại biểu đoàn Đồng Tháp đề nghị Chính phủ thời gian tới quan tâm thêm một số lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh tham nhũng, nhất là thời gian gần đây quan tâm của dư luận nhiều về mua sắm trang thiết bị y tế, các khoản đóng góp của nhân dân trong hoạt động từ thiện.

Cùng vấn đề trên, đại biểu Phan Thái Bình (đoàn Quảng Nam) cho biết, thời gian vừa qua công tác phòng, chống dịch bệnh có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của nhân dân đều rất tích cực, trong đó hoạt động nhân đạo, từ thiện cũng rất được quan tâm.

Tuy nhiên, theo đại biểu đoàn Quảng Nam, tình hình vận động, kêu gọi từ thiện, nhân đạo trong công tác phòng, chống thiên tai vừa qua trên các mạng xã hội xảy ra việc tranh chấp, nói xấu lẫn nhau, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, văn hóa truyền thống của dân tộc.

“Tôi đề nghị các cơ quan chức năng, đặc biệt là cơ quan điều tra và cơ quan tư pháp vào cuộc một cách mạnh mẽ vấn đề này và kịp thời hơn, để làm rõ, trả lời cho công luận, cử tri biết rõ ai đúng, ai sai. Từ đó, chúng ta có giải pháp, đặc biệt là kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội có hành lang pháp lý một cách minh bạch, rõ ràng cho công tác từ thiện trong thời gian tới, đảm bảo an ninh trật tự, không thể nó diễn ra một cách dai dẳng như thế mà không có câu trả lời cuối cùng”, đại biểu Phan Thái Bình nói.

Giải trình trước Quốc hội trong phiên thảo luận tại hội trường, Viện trưởng Viện KSND Tối cao Lê Minh Trí ghi nhận ý kiến đại biểu đề cập việc gần đây một số đối tượng có hành vi tranh chấp, xung đột trên mạng xã hội liên quan đến hoạt động từ thiện, gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục, gây phản cảm trong đời sống xã hội.

Ông Lê Minh Trí dẫn Điều 331 Bộ luật Hình sự về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và khẳng định thời gian tới các cơ quan tố tụng sẽ xem xét, xử lý để bảo đảm trật tự kỷ cương của xã hội.

Theo Baomoi.com

Tranh chấp đất thừa kế, chia tài sản thế nào nếu hết thời hiệu khởi kiện?

Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản thừa kế là 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản. Vậy, khi hết thời hiệu khởi kiện thừa kế thì di sản đó sẽ được chia như thế nào?
Thời hiệu thừa kế

Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày mà Tòa án xác định người đó đã chết. Nếu không xác định được chính xác ngày chết của người đó thì ngày bản án tuyên bố một người đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày mà người đó chết.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Việc xác định thời điểm, địa điểm mở thừa kế là yêu cầu đầu tiên của quan hệ thừa kế và đóng vai trò rất quan trọng. Vì tại thời điểm và địa điểm này sẽ xác định được người thừa kế của người chết, di sản mà người chết để lại, xác định Tòa án có thẩm quyền thụ lý, nơi thực hiện nghĩa vụ cũng như thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.

Đồng thời, việc xác định chính xác địa điểm mở thừa kế còn có ý nghĩa khi xác định việc từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015 có hợp pháp hay không.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định của pháp luật; Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Trong thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế, xác định quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của người khác. Hết thời hạn này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sẽ được tính từ thời điểm bắt đầu của ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện người để lại di sản chết và thời điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày tương ứng 10 năm sau. Tuy nhiên được hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế.

Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp đã chia tài sản thừa kế mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

Chia nhà đất khi hết thời hiệu khởi kiện thừa kế

Theo quy định tại Mục 2.4, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong một số việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế:

Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.

Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

– Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

– Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

– Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề hết thời hiệu khởi kiện thừa kế thì di sản đó sẽ được chia như thế nào. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Không được đặt thêm điều kiện để cản trở, hạn chế tham gia đấu giá tài sản

Tại cuộc họp báo về tình hình công tác Quý III của Bộ Tư pháp, bà Nguyễn Thị Mai – Cục trưởng Cục Bổ trợ Tư pháp cho biết đã nhận được phản ánh vụ việc doanh nghiệp trúng đấu giá mỏ cát ở tỉnh An Giang không nộp tiền trúng đấu giá và đang muốn ‘xin lại tiền cọc’.

Theo bà Mai, cuộc đấu giá mỏ cát ở An Giang ngày 26/3/2021 là cuộc đấu giá đã thành, do Trung tâm đấu giá tài sản tỉnh An Giang tổ chức, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ T-S.Home đã trúng đấu giá.

Theo Điều 39 Luật Đấu giá tài sản, tiền đặt trước của người tham gia đấu giá chuyển thành tiền đặt cọc và được xử lý theo quy định của pháp luật dân sự. Quyền, nghĩa vụ của người trúng đấu giá thực hiện theo pháp luật dân sự và Luật Khai thác khoáng sản. Câu chuyện ở đây là doanh nghiệp trúng đấu giá đã trả giá lên rất cao để trúng đấu giá, từ giá khởi điểm là 7,2 tỷ đồng, lên đến hơn 2.800 tỷ đồng, tăng 400% so với giá khởi điểm.

Vậy xử lý như thế nào với trường hợp doanh nghiệp trúng đấu giá không thực hiện việc khai thác mỏ cát đó mà xin trả lại tiền đặt cọc? Bà Mai cho hay, Bộ luật Dân sự đã quy định rõ chế tài với trường hợp vi phạm hợp đồng, đồng thời, Điều 6, Nghị định 22/2012/NĐ-CP về đấu giá tài sản quy định rõ không trả lại tiền đặt trước nếu người trúng đấu giá không thực hiện việc xin cấp giấy phép quyền khai thác và giấy phép thăm dò.

Cục trưởng Cục Bổ trợ Tư pháp Nguyễn Thị Mai trả lời tại buổi họp báo. 

Điều 8 Nghị định 22/2012/NĐ-CP cũng quy định, nếu người trúng đấu giá từ chối không nhận kết quả đấu giá và không được hội đồng đấu giá quyền khai thác khoáng sản chấp nhận, thì sẽ bị cấm tham gia các cuộc đấu giá tiếp theo trong thời hạn 1 năm, tính từ ngày diễn ra cuộc đấu giá đó.

“Có thể nói rằng quy định về chế tài và cách thức xử lý việc này đã có đầy đủ. Quả bóng thuộc về Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xử lý như thế nào”, bà Mai nói.

Bà Mai cũng khẳng định, vụ việc này, Cục Bổ trợ Tư pháp rất quan tâm, vì nếu một doanh nghiệp tham gia đấu giá nhiều lần, sau đó cứ hủy kết quả liên tục như vậy, sẽ dẫn đến tình trạng cơ quan Nhà nước không thể bán được tài sản và theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, buộc phải bán tài sản dưới hình thức chỉ định, không đấu giá nữa.

Khi bán theo hình thức chỉ định thì xảy ra nguy cơ bán theo giá khởi điểm, không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, và nguy cơ thất thoát tài sản có thể xảy ra nếu không tổ chức đấu giá công khai, minh bạch và khách quan, không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.

Cục trưởng Cục Bổ trợ Tư pháp cũng cho hay, Bộ Tư pháp đã có rất nhiều văn bản kiến nghị khi đưa tài sản ra đấu giá phải xác định giá trị tài sản đấu giá, và trách nhiệm này thuộc về người có tài sản. Ủy ban nhân dân các cấp và các bộ, ngành có tài sản đưa ra đấu giá phải thuê các tổ chức định giá xác định đúng giá trị tài sản. Có như vậy mới tránh tình trạng bán dưới giá thị trường, hoặc đẩy lên cao quá để sau đó lại hủy kết quả đấu giá.

Bộ Tư pháp cũng đã đề xuất các địa phương nghiên cứu, rà soát các quy định pháp luật về xác định giá khởi điểm để đảm bảo giá khởi điểm đúng giá trị thực của tài sản, tránh tình trạng bán thấp quá, hoặc các doanh nghiệp có thể trả giá rất cao, rồi sau đó bỏ tiền đặt cọc, dẫn đến nguy cơ sau rất nhiều lần như vậy sẽ giao tài sản dưới sự chỉ định, sẽ không công khai minh bạch, so với hình thức bán đấu giá.

Nói về tình trạng người có tài sản đặt ra thêm điều kiện đối với tổ chức đấu giá tài sản để cho tổ chức đấu giá tài sản là “sân sau” của mình được tổ chức đấu giá, Cục trưởng Cục Bổ trợ Tư pháp cho biết, Bộ Tư pháp đang xây dựng Thông tư hướng dẫn tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá, đảm bảo công khai, minh bạch, tính cạnh tranh trong lựa chọn đúng các tổ chức đấu giá tài sản uy tín, chất lượng.

Với trường hợp đặt điều kiện để cản trở, hạn chế người tham gia đấu giá tài sản, bà Mai cho hay, Điều 38, điều 9 Luật Đấu giá tài sản đã quy định rõ. Ngoài ra, Bộ Tư pháp có rất nhiều công văn gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, người có tài sản và các bộ, ngành liên quan để quán triệt, chỉ dạo các đơn vị được giao quyền đấu giá không được đặt ra thêm điều kiện ngoài các quy định của pháp luật. Đồng thời, rà soát các quy định pháp luật có liên quan, nếu không phù hợp thì đề nghị bỏ.

Theo Baomoi.com

Làm ngay 3 điều này nếu mua phải đất dính quy hoạch

Do nóng vội, ham rẻ, không ít người xuống tiền đặt cọc hoặc ký kết hợp đồng mua bán xong mới phát hiện đất đó dính quy hoạch.

Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế – xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định.

Đất thuộc quy hoạch đã có quyết định thu hồi thì không được chuyển quyền sử dụng đất (mua bán đất). Tuy nhiên, với đất thuộc quy hoạch nhưng chưa có quyết định thu hồi thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, chủ đất có thể bị hạn chế một số quyền sử dụng đất song vẫn có thể bán đất. Trên thị trường, đất nằm trong diện quy hoạch thường có giá bán rẻ hơn.

Vì nóng vội, ham rẻ, không tìm hiểu kỹ, có những người mua sau khi đặt cọc hoặc ký hợp đồng mua bán xong mới phát hiện mảnh đất đó dính quy hoạch. Mua phải đất dính quy hoạch thường kèm theo nhiều phiền toái trong việc chuyển nhượng, tách thửa, xây sửa nhà cửa,… Nếu sau này đất bị thu hồi thì tiền bồi thường thấp hơn nhiều so với số tiền từng bỏ ra để mua thửa đất đó.

Do vậy, ngay khi phát hiện mình đã đặt cọc hoặc ký kết hợp đồng mua bán trúng mảnh đất dính quy hoạch, người dân cần làm ngay những điều sau đây.

Xác định người bán có mục đích lừa dối không

Như đã nói ở trên, đất thuộc quy hoạch đã có quyết định thu hồi thì không được chuyển quyền sử dụng đất (mua bán đất). Nếu chủ đất cố tình che giấu thông tin quy hoạch trên để rao bán, nhận tiền đặt cọc của bên mua thì đây là hành vi lừa dối, vi phạm pháp luật.

Điều 127, Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa:

– Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

– Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Như vậy, nếu người bán che giấu thông tin đất dính quy hoạch đã có quyết định thu hồi, giao dịch đặt cọc sẽ bị vô hiệu. Bên mua có thể khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu do bị lừa dối. Trong trường hợp việc đặt cọc bị tòa án tuyên vô hiệu thì bên mua sẽ lấy lại được khoản tiền cọc.

Kiểm tra lại nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Trong nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ có những điều khoản về thông tin thửa đất, thỏa thuận về giá chuyển nhượng, quyền và nghĩa vụ, cam kết của các bên,… Bên nhận chuyển nhượng (người mua) cần kiểm tra trong hợp đồng có nội dung cam kết về việc đất không thuộc quy hoạch không.

Nếu trong hợp đồng có cam kết của bên bán về việc đất không thuộc quy hoạch thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán trả lại tiền. Trường hợp bên bán không đồng ý trả lại tiền thì bên mua có quyền khởi kiện.

Nếu trong hợp đồng không có cam kết của bên bán về việc đất không thuộc quy hoạch thì bên mua phải chấp nhận vì nội dung do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp bên mua chứng minh được bị lừa dối.

Nắm rõ quyền sử dụng đất

Mua đất quy hoạch có thể tồn tại nhiều rủi ro nhưng trong nhiều trường hợp nó cũng là cơ hội. Bởi đất thuộc diện quy hoạch thường được rao bán với giá rẻ hơn mức giá chung của thị trường. Quy hoạch có thể thay đổi theo thời gian tùy theo tình hình sử dụng đất tại địa phương nhằm đảm bảo phù hợp với thực tiễn, cho nên trong tương lai quy hoạch liên quan đến mảnh đất cũng có thể bị dỡ bỏ hoặc có thay đổi.

Hơn nữa, đất thuộc diện quy hoạch, tùy từng trường hợp chủ đất vẫn có rất nhiều quyền sử dụng. Khi đã mua phải mảnh đất dính quy hoạch, người mua cần nắm rõ những quyền và nghĩa vụ của mình.

Cụ thể, khi mua phải đất thuộc quy hoạch nhưng chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì chủ đất vẫn được tiếp tục sử dụng, được thực hiện quyền chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế… nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định. Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì chủ đất phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch; được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới công trình, nhà ở, trồng cây lâu năm. Nếu có nhu cầu sửa chữa, cải tạo nhà ở, công trình hiện có thì phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Khoản 33, Điều 1, Luật Xây dựng sửa đổi năm 2020 có quy định, sau 3 năm kể từ ngày công bố kế hoạch sử dụng đất hàng năm nhưng chưa có quyết định thu hồi thì người sử dụng đất có quyền đề nghị cấp giấy phép xây dựng có thời hạn.

Chủ đất cũng sẽ được bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất quy hoạch nếu đảm bảo đủ các điều kiện.

Theo Baomoi.com

Thêm thẩm quyền cho công an xã để giải quyết vụ việc ngay tại cơ sở

Việc giao thêm trách nhiệm cho công an xã sẽ phát huy nguồn lực của lực lượng này trong việc kiểm tra, xác minh sơ bộ tin báo và tạo điều kiện giải quyết kịp thời các vụ việc ngay từ giai đoạn đầu.

Toàn cảnh Quốc hội thảo luận trực tuyến tại điểm cầu Nhà Quốc hội sáng 25/10.

Sáng 25/10, các đại biểu Quốc hội thảo luận trực tuyến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Theo chương trình, dự án Luật sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 2.

Việc sửa đổi này nhằm bảo đảm đúng lộ trình thực hiện cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và yêu cầu theo Nghị quyết số 72/2018/QH14 của Quốc hội.

Đồng thời, việc ban hành Luật đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 nói riêng và quy định phù hợp với thực tiễn trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh bất khả kháng nói chung.

Một số nội dung sửa đổi đáng chú ý trong Bộ luật là về quy định công an xã được kiểm tra, xác minh sơ bộ trong tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm như công an phường, thị trấn, đồn công an; bổ sung căn cứ tạm đình chỉ khởi tố, điều tra, truy tố “vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh;” về thẩm quyền có thể khởi tố vụ án hình sự về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mà không cần có yêu cầu của người bị hại.

Giải quyết vụ việc ngay tại cơ sở

Hiện nay, tất cả công an xã đã được Bộ Công an tổ chức chính quy, đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, xử lý ngay các vụ việc tại địa bàn cơ sở.

Tuy nhiên, khoản 3, Điều 146 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 hiện hành chưa quy định công an xã được kiểm tra, xác minh sơ bộ trong tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm như công an phường, thị trấn, đồn công an.

Việc này dẫn đến công an xã chưa phát huy tốt được vai trò chính quy; không kịp thời giảm tải khối lượng công việc rất lớn cho Cơ quan điều tra Công an cấp huyện ở các địa phương trong tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Là cơ quan chủ trì soạn thảo sửa đổi Bộ luật này, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đề nghị bổ sung trách nhiệm kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm đối với công an xã (tương đương với trách nhiệm của công an phường, thị trấn, đồn công an).

Theo Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, hiện Bộ Công an đã bố trí công an chính quy đảm nhiệm các chức danh công an xã nên việc sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của công an xã giống như công an phường, thị trấn, đồn công an là phù hợp và cần thiết.

Việc giao thêm trách nhiệm cho công an xã sẽ phát huy nguồn lực của lực lượng này trong việc kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo tiếp nhận được và tạo điều kiện giải quyết kịp thời các vụ việc ngay từ giai đoạn mới phát hiện.

Làm rõ hơn về vấn đề này, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an, cho rằng xã, phường đứng về mặt hành chính là ngang nhau, nhưng hiện quy mô công an phường, thị trấn rất lớn.

Quy mô của xã chỉ bằng 1/5 của phường, nhưng thực tế có nhiều xã phức tạp hơn phường nhiều. Như những xã đang đô thị hóa, xã ven đô, xã vùng sâu, vùng xa, vùng phức tạp; có những xã đi trong xã không thôi cũng gần trăm cây số.

“Nếu chúng ta không tổ chức việc này, người dân chưa bao giờ được hưởng thụ những vấn đề bảo đảm về an ninh, trật tự, những bức xúc của người dân không được giải quyết, mà lên huyện càng xa… Gần dân, sát dân của cấp xã là rất quan trọng,” Bộ trưởng lý giải.

Lực lượng công an xã đóng vai trò trong việc giải quyết các vụ việc ngay từ giai đoạn mới phát hiện.

Gần 2 năm qua, Bộ Công an đã điều động khoảng 45.000 công an chính quy xuống 100% xã, đạt tỷ lệ trung bình 5,2 công an chính quy/xã; có xã 5 người, có xã 7-8 người.

Có xã thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có 50 cán bộ, chiến sỹ công an, vì xã có tới 130.000 dân, gần bằng nửa tỉnh khác, có 2.000 khách sạn. Nếu công an xã chính quy chỉ 5 người sẽ không đảm bảo công việc.

Bộ trưởng Tô Lâm cho biết thêm trong số cán bộ công an chính quy, trên 50% có trình độ đại học, trên 71% từng làm công tác điều tra hoặc liên quan điều tra hình sự.

Vừa qua, Bộ Công an tiếp tục tăng cường gần 400 cán bộ xuống các xã biên giới. Đây là nơi mà những vấn đề liên quan an ninh, biên giới, tôn giáo, dân tộc, dịch COVID-19 rất phức tạp.

Thực tế, từ ngày 1/10/2017 đến tháng 6/2021, công an xã đã xử lý hơn 283.000 tin báo tố giác tội phạm (chiếm trên 60%), chủ yếu những vụ việc xảy ra ở địa bàn cơ sở như: trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng…

Nếu không phân cấp cho xã rất khó khăn, bởi vì những vấn đề này cần giải quyết từ sớm, từ xa; nếu kéo dài không giải quyết có thể dẫn đến một vụ án hình sự khác.

Trung bình một năm, một công an xã chính quy tiếp nhận 0,84% tố giác, tin báo tội phạm; Công an phường, thị trấn tiếp nhận 1,3%. Bộ trưởng khẳng định, khi sắp xếp lại, đưa cán bộ tăng cường xuống xã, Bộ Công an không tăng biên chế mà chỉ tính toán trong nội bộ…

Về cơ sở vật chất, Bộ Công an sẽ phối hợp với các địa phương để đảm bảo đội ngũ công an xã được chăm lo, định hướng, phân công, phân cấp đảm nhiệm những công việc ở xã một cách tốt nhất.

Bổ sung căn cứ tạm đình chỉ vì lý do thiên tai, dịch bệnh

Dự án Luật cũng đề nghị sửa đổi về vấn đề bổ sung căn cứ tạm đình chỉ khởi tố, điều tra, truy tố “vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh.”

Về nguyên nhân, ảnh hưởng của tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp ở nhiều tỉnh, thành phố, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách trong thời gian dài đã ảnh hưởng đến công tác kiểm tra, xác minh các vụ việc trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; việc tiến hành các hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra và việc tiến hành các hoạt động tố tụng trong giai đoạn truy tố của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bị trì hoãn, kéo dài do không thể tiến hành các hoạt động cần thiết để chứng minh hành vi phạm tội của người người phạm tội để quyết định việc khởi tố hoặc kết luận điều tra hoặc truy tố.

Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho rằng dự báo trong thời gian tới, Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới sẽ còn phải chịu những tác động khó lường do biến đổi cực đoan của khí hậu và tình hình dịch bệnh ngày càng phức tạp do chưa kiểm soát được đại dịch COVID-19 và nguy cơ phát sinh các loại dịch bệnh khác nguy hiểm, có khả năng lây nhiễm cao hơn.

Bắt giữ đối tượng. 

Việc bổ sung căn cứ tạm đình chỉ này sẽ tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những khó khăn, vướng mắc cấp bách từ thực tiễn hiện nay cũng như khả năng phát sinh trong thời gian tới.

Đồng thời, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các trường hợp này, bởi sẽ có căn cứ pháp luật cho phép: khi không thể tiến hành được các hoạt động tố tụng thì cơ quan tiến hành tố tụng được tạm đình chỉ và không tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội; đồng thời, tạo cơ chế tố tụng để các cơ quan tiếp tục theo dõi, quản lý được vụ án, vụ việc tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; tránh được việc để xảy ra oan, sai; bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.

Để bảo đảm áp dụng thống nhất, chặt chẽ, tránh lạm dụng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao Lê Minh Trí kiến nghị Quốc hội giao Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan quy định chi tiết việc tạm đình chỉ trong các trường hợp này.

Sửa luật để đảm bảo các cam kết quốc tế

Cũng trong dự án Luật sửa đổi, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao nhận thấy quy định tại Khoản 1, Điều 155 và Khoản 8, Điều 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự chưa tương thích với Hiệp định CPTPP về nội dung liên quan đến việc cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể khởi tố vụ án hình sự về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mà không cần có yêu cầu của người bị hại.

Hiệp định CPTPP quy định, các quốc gia thành viên cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể chủ động thực hiện hành động pháp lý mà không cần có khởi kiện chính thức từ người thứ ba hay chủ thể quyền đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu.

Theo báo cáo thẩm tra tờ trình của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đa số ý kiến đề nghị chỉ sửa đổi để bãi bỏ nội dung về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, không sửa đổi quy định liên quan đến chỉ dẫn địa lý.

Các đại biểu cho rằng chính sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta từ trước đến nay là đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về chỉ dẫn địa lý (thuộc loại tội ít nghiêm trọng), quy định tại khoản 1 các điều tương ứng của Bộ luật Hình sự, chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại là trên cơ sở cân nhắc lợi ích của bị hại, dành cho họ quyền lựa chọn xử lý hoặc không xử lý bằng biện pháp hình sự.

Trường hợp phạm tội có mức độ nghiêm trọng hơn, theo quy định của pháp luật tố tụng từ trước đến nay, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động khởi tố mà không phụ thuộc vào yêu cầu khởi tố của bị hại.

Thực tiễn thực hiện các quy định này theo báo cáo tổng kết của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều thuận lợi, hiện nay chỉ phát sinh vướng mắc duy nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự chưa tương thích với Hiệp định CPTPP.

Xuất phát từ mục đích xây dựng dự án luật là bảo đảm cam kết của Việt Nam trong Hiệp định CPTPP, do đó, chỉ thực hiện đúng phạm vi yêu cầu của hiệp định về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, không đặt vấn đề đối với chỉ dẫn địa lý.

Ý kiến của Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ; ý kiến tham gia thẩm tra của Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Đối ngoại đều đề nghị cân nhắc kỹ việc sửa đổi này.

Theo Baomoi.com

Cả nước có 266 dự án nhà ở xã hội với 142.000 căn hộ

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, đến nay trên địa bàn cả nước đã hoàn thành 266 dự án nhà ở xã hội, quy mô xây dựng khoảng hơn 142.000 căn, với tổng diện tích hơn 7.100.000 m2; đang tiếp tục triển khai 278 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 276.000 căn, với tổng diện tích khoảng 13.800.000 m2.

Trong đó, đối với nhà ở xã hội ở dành cho công nhân khu công nghiệp, đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng 121 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 54.000 căn hộ, với tổng diện tích 2.700.000 m2; đang tiếp tục triển khai 100 dự án với quy mô xây dựng khoảng 134.000 căn hộ, tổng diện tích 6.700.000 m2.

Trong thời gian tới để công tác xây dựng nhà ở xã hội được triển khai nhanh Bộ Xây dựng kiến nghị sửa Luật nhà ở trong đó cần có cơ chế, chính sách về đất, lãi suất, diện tích sử dụng… về nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp.

Theo Bộ Xây dựng, về lâu dài cần phải nghiên cứu, sửa đổi Luật Nhà ở 2014 và các luật khác có liên quan, trong đó có cơ chế, chính sách riêng về khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân KCN.

Cụ thể, trong quy hoạch KCN phải bố trí quỹ đất làm nhà lưu trú cho công nhân thuê; giao chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN hoặc các DN khác hoặc phối hợp với Tổng Liên đoàn đầu tư dự án nhà lưu trú công nhân; diện tích sử dụng tối thiểu khoảng 10m2/người.

Ngoài ra, Bộ Xây dựng cho rằng, cần có cơ chế ưu đãi miễn tiền sử dụng đất; miễn, giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp; vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội, tổ chức tín dụng; chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong khu nhà ở công nhân được hạch toán vào chi phí giá thành hạ tầng chung của cả KCN….

Theo Baomoi.com

Hà Nội: Vẫn còn hàng trăm chung cư chưa thành lập Ban quản trị

Theo thống kê, tại Hà Nội mới có 567/796 nhà chung cư đã thành lập Ban quản trị.

Sở Xây dựng Hà Nội cho biết, trên địa bàn thành phố hiện có 928 nhà chung cư đã hoàn thành đưa vào sử dụng. Trong đó có 132 nhà chung cư đã hoàn thành, đưa vào sử dụng trước khi Luật Nhà ở năm 2005 (có hiệu lực ngày 1/7/2006) và 796 nhà chung cư hoàn thành, đưa vào sử dụng sau ngày 1/7/2006.

Trong số 132 chung cư đưa vào sử dụng trước ngày 1/7/2006, có 93/132 chung cư đã thành lập Ban quản trị. Còn 39 nhà chung cư chưa thành lập Ban quản trị do chung cư xây dựng trước thời điểm Luật Nhà ở 2005, không có kinh phí bảo trì nên cư dân không muốn thành lập.

Nhiều tòa chung cư chưa được thành lập Ban quản trị và kinh phí bảo trì.

Đối với 796 nhà chung cư đưa vào sử dụng sau ngày 1/7/2006, đã có 567/796 nhà chung cư đã thành lập Ban quản trị; 414/567 nhà chung cư đã bàn giao kinh phí bảo trì 2% cho Ban quản trị. Nhìn chung, hoạt động quản lý nhà nước đối với quản lý, vận hành nhà chung cư bảo đảm đúng quy định hiện hành.

Chánh Thanh tra Bộ Xây dựng Nguyễn Ngọc Tuấn cho biết, đầu năm 2021, Thanh tra Bộ tập trung thanh tra đối với các chủ đầu tư và ban quản trị nhà chung cư có biểu hiện không chấp hành các quy định của pháp luật về nhà ở, đặc biệt là việc quản lý, sử dụng kinh phí bảo trì.

Kết thúc đợt thanh tra, Chánh Thanh tra Bộ Xây dựng đã ban hành 18 kết luận thanh tra, buộc 12/18 chủ đầu tư phải gửi vào tài khoản kinh phí bảo trì theo quy định và quyết toán để chuyển cho ban quản trị hơn 344,96 tỉ đồng kinh phí bảo trì; Xử phạt vi phạm hành chính 8/18 chủ đầu tư với tổng số tiền 1,03 tỉ đồng… 18 kết luận thanh tra đã giải quyết dứt điểm nhiều kiến nghị, khiếu nại của cư dân các tòa chung cư.

Về vấn đề này, mới đây, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-BXD ngày 15/9/2021, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố tăng cường công tác quản lý việc sử dụng kinh phí bảo trì; Chỉ đạo cơ quan chức năng xử lý các trường hợp vi phạm trong quản lý, sử dụng kinh phí bảo trì; Cưỡng chế chủ đầu tư không bàn giao kinh phí bảo trì. Ngoài ra, Bộ Xây dựng đề nghị các địa phương tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác quản lý, sử dụng kinh phí bảo trì nhà chung cư…

Với những chủ trương, quy định đã có, tin tưởng rằng, việc quản lý, sử dụng quỹ bảo trì chung cư sẽ sớm khắc phục những tồn tại, giảm tranh chấp, khiếu kiện tại các chung cư.

Theo Baomoi.com

Sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ: Khuyến khích sáng tạo, góp phần thúc đẩy phát triển

Trong tuần làm việc đầu tiên của kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV đã xem xét và cho ý kiến đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT). Theo Bộ KH-CN, đơn vị chủ trì thực hiện dự án luật, việc sửa đổi, bổ sung này nhằm khẳng định SHTT là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội. Xung quanh vấn đề này, Phó Cục trưởng Cục SHTT (Bộ KH-CN) Nguyễn Văn Bảy đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo SGGP.

Phóng viên: Xin ông cho biết về những bất cập, hạn chế trong việc thực thi Luật SHTT hiện nay?

Phó Cục trưởng Cục SHTT NGUYỄN VĂN BẢY: Bên cạnh những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế – xã hội và công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, qua thực tiễn hơn 15 năm thi hành cùng với những yêu cầu nội tại cần phải đổi mới trong thời kỳ hội nhập cũng cho thấy Luật SHTT còn tồn tại một số bất cập, hạn chế nhất định. Đó là bất cập trong quy định về chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan; bất cập trong quy định hiện hành về việc khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước, dẫn đến hạn chế khả năng thương mại hóa các đối tượng này; bất cập về thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan và xác lập quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), như chưa quy định rõ một số thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, một số thủ tục xác lập quyền SHCN còn phức tạp và chưa hoàn toàn hợp lý, dẫn đến kéo dài thời gian thẩm định đơn đăng ký xác lập quyền SHCN;…

Hoạt động thực thi quyền SHTT cũng đang gặp phải không ít khó khăn, thách thức do hành vi xâm phạm quyền SHTT ngày càng tinh vi, phức tạp và diễn ra ngày càng phổ biến trên môi trường mạng. Cùng với đó, trong việc tuân thủ những điều ước quốc tế, cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) có yêu cầu cao về thực thi quyền SHTT mà Việt Nam tham gia gần đây như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA)… đã đặt ra đòi hỏi phải sớm sửa đổi, bổ sung Luật SHTT cho phù hợp hơn với các quy định quốc tế.

Việc tham gia các FTA thế hệ mới, nhất là với những nước phát triển, đem lại điều gì cho Việt Nam trong việc phát huy các lợi ích từ thực thi quyền SHTT, thưa ông?

Cơ chế bảo hộ quyền SHTT vốn dĩ được coi là một công cụ để khuyến khích, thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, chống cạnh tranh không lành mạnh để đưa các sản phẩm sáng tạo, đặc biệt là công nghệ mới để phát triển kinh tế, phục vụ đời sống xã hội. Đáp ứng cam kết về SHTT trong các FTA thế hệ mới, bên cạnh việc góp phần tạo ra một môi trường tốt có khả năng thu hút chuyển giao công nghệ của nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm quốc nội, tạo điều kiện từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, còn tạo thuận lợi cho cả doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi ích đối với thành quả đầu tư cho hoạt động sáng tạo.

Tuy nhiên, tích cực tham gia hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là ta phải chấp nhận luật chơi chung toàn cầu. Bên cạnh những lợi ích phải đánh đổi để tạo khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội xâm nhập được thị trường quốc tế thì những khó khăn, thách thức trong tiến trình hội nhập cũng sẽ ngày càng nhiều. Việc tận dụng cơ hội, giảm thiểu thách thức hay cao hơn là biến thách thức trở thành cơ hội là công việc cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của Nhà nước, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức khác trong xã hội.

Theo dự án đã được trình ra Quốc hội, việc sửa đổi Luật SHTT sẽ được thực hiện theo hướng nào?

Việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT được thực hiện theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, quyền SHTT được bảo vệ và thực thi hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Cụ thể, sẽ vào 7 nhóm chính sách lớn, gồm: Đảm bảo quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan; khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước;
tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan và thủ tục xác lập quyền SHCN; đảm bảo mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền SHTT; tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về SHTT; nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền SHTT; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ SHTT trong quá trình hội nhập.

Theo ông, Việt Nam cần ứng xử như thế nào để có thể vừa tuân thủ luật pháp quốc tế, đồng thời học hỏi, tiếp thu những tiến bộ KH-CN của nhân loại vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước?

Thời gian qua, Việt Nam nỗ lực duy trì một hệ thống SHTT phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, Nhà nước chú trọng việc cân bằng lợi ích của chủ SHTT và lợi ích xã hội để một mặt bảo vệ thành quả đầu tư cho hoạt động sáng tạo của tổ chức, cá nhân, mặt khác coi trọng lợi ích của toàn dân. Theo thống kê của Cục SHTT, trong giai đoạn 2016-2020, trung bình hàng năm có khoảng 5.600 sáng chế nước ngoài nộp đơn đăng ký bảo hộ tại Việt Nam. Trong khi đó, theo công bố của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), số lượng sáng chế được đăng ký bảo hộ trên toàn thế giới trong những năm gần đây trung bình là trên 3 triệu sáng chế/năm. Như vậy, nhiều công nghệ sẽ không được hưởng quyền bảo hộ đối với sáng chế trên lãnh thổ Việt Nam.

Theo nguyên tắc của hệ thống bảo hộ sáng chế, gần như tất cả các sáng chế đăng ký bảo hộ đều được công bố công khai và đây chính là kho tri thức công nghệ vô giá nếu biết cách khai thác hiệu quả và hợp lý. Đó là cơ hội rất tốt cho việc học hỏi, tiếp thu, vận dụng kịp thời những tiến bộ KH-CN của nhân loại vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Theo Baomoi.com

PVI lãi sau thuế 805 tỷ đồng, vượt 10% kế hoạch năm sau 9 tháng

Lũy kế 9 tháng đầu năm, PVI báo lãi sau thuế 805 tỷ đồng, tăng 30% cùng kỳ và vượt 10% kế hoạch cả năm.

PVI lãi sau thuế 805 tỷ đồng, vượt 10% kế hoạch năm sau 9 tháng

Công ty Cổ phần PVI (HNX: PVI) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý III với doanh thu thuần đạt 2.162 tỷ đồng, tăng nhẹ 3% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhờ chi phí giá vốn giảm mạnh, biên lợi nhuận gộp cải thiện đáng kể so với quý III/2020, lên 14,8%. Lợi nhuận gộp đạt gần 320 tỷ đồng, tăng 56%.

Trong quý, doanh thu tài chính tăng trưởng 27% cùng kỳ, đạt trên 223 tỷ đồng. Khấu trừ chi phí tài chính 26,6 tỷ đồng (giảm 5,5%) và quản lý doanh nghiệp 98,8 tỷ đồng (giảm 21%), PVI báo lãi sau thuế 344,3 tỷ đồng, cao hơn gấp đôi so với quý III/2020.

Lũy kế 9 tháng đầu năm, PVI ghi nhận doanh thu thuần đạt 7.743 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 805 tỷ đồng, lần lượt tăng 10% và 30% so với cùng giai đoạn năm trước. Với kết quả này, PVI đã vượt hơn 10% kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Tại thời điểm 30/9/2021, tổng tài sản của PVI đã vượt 1 tỷ USD, đạt hơn 23.678 tỷ đồng, tăng hơn 1.400 tỷ so với đầu năm. Tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của PVI gần 10.000 tỷ đồng trong đó tiền và tương đương tiền hơn 1.150 tỷ và đầu tư ngắn hạn 8.824 tỷ, đa phần là gửi ngân hàng.

Đóng cửa phiên giao dịch 22/10, cổ phiếu PVI tăng 1.000 đồng lên 49.600 đồng/cổ phiếu.

Theo Baomoi.com

Hé lộ tiềm lực của đại gia Lê Thành, ông chủ của Tân Mai Group vừa bị xử phạt hành chính gần 500 triệu đồng

Công ty Cổ phần tập đoàn Tân Mai (Tân Mai Group) bị phạt do phát hiện có nhiều hành động trái quy định.

Cụ thể, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã ban hành uyết định xử phạt hành chính đối với 2 doanh nghiệp là Công ty Cổ phần tập đoàn Tân Mai (Tân Mai Group) và Công ty Cổ phần xây lắp và sản xuất công nghiệp do vi phạm việc thực hiện phát hành thêm cổ phiếu nhưng không đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và không đăng ký giao dịch chứng khoán; công bố thông tin không đúng thời hạn theo quy định pháp luật.

Tân Mai Group phải nộp tổng số tiền phạt hành chính lên tới 475 triệu đồng. Phạt tiền 125 triệu đồng do thực hiện phát hành thêm cổ phiếu nhưng không đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Nghị quyết của đại hội đồng cổ đông số 243/QĐ-ĐHĐCĐ ngày 21/1/2013 thông qua việc sáp nhập công ty, Nghị quyết đại hội đồng cổ đông số 02/NQ.HĐQT ngày 24/1/2013 thông qua việc chấp thuận nội dung hợp đồng sáp nhập và điều lệ công ty sau sáp nhập và báo cáo số 960/TM.G–KT ngày 21/11/2013 của công ty, Công ty Cổ phần Giấy Đồng Nai được sáp nhập vào công ty kể từ ngày 8/4/2013.

Tuy nhiên, việc sáp nhập để hoán đổi cổ phiếu của công ty phải nộp hồ sơ đăng ký phát hành cổ phiếu để hoán đổi cổ phần với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhưng công ty đã không nộp hồ sơ đăng ký phát hành cổ phiếu để hoán đổi cổ phần theo quy định.

Phạt tiền 350 triệu đồng do không đăng ký giao dịch chứng khoán. Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, công ty trở thành công ty đại chúng trước ngày 1/1/2016 (thời điểm Thông tư số 180/2015/TT-BTC ngày 13/11/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về đăng ký giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết có hiệu lực).

Ngày 7/6/2017, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có công văn số 3771/UBCK-GSĐC yêu cầu công ty đăng ký giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch UPCoM. Tuy nhiên, đến nay, công ty chưa thực hiện việc đăng ký giao dịch.

Nói đến Tân Mai, doanh nghiệp này từng là một trong những tên tuổi hàng đầu của ngành sản xuất giấy Việt Nam với quỹ đất rừng hàng nghìn héc ta. Doanh nghiệp đang sở hữu và quản lý 30.846,22 ha đất rừng ở Đắk Nông, Lâm Đồng, Đồng Nai và hàng triệu m2 đất nhà máy giấy ở Kon Tum, Quảng Ngãi, Đồng Nai, Bình Dương. Buổi đầu mới thành lập, doanh nghiệp có vốn điều lệ lên tới hơn 890,9 tỷ đồng.

Vài năm gần đây, việc kinh doanh của doanh nghiệp vốn không tốt đẹp khi liên tiếp thua lỗ. Năm 2018, Tân Mai Group lỗ gần 12 tỷ đồng, lỗ lũy kế gần 300 tỷ đồng vào cuối năm 2018.

Khoản lỗ lũy kế giảm đáng kể khi trong năm 2017 doanh nghiệp này ghi nhận khoản lợi nhuận bất thường hơn 400 tỷ đồng từ việc miễn giảm lãi vay và chuyển nhượng dự án bất động sản.

Trong năm 2019, Tân Mai Group lỗ trước thuế hơn 15 tỷ đồng, lỗ sau thuế hơn 12,5 tỷ đồng. Tính đến hết năm 2019, Tân Mai Group nợ hơn 7.840 tỷ đồng, trong khi vốn điều lệ chỉ 890 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có 8 khoản vay quá hạn với tổng nợ gốc hơn 2.000 tỷ đồng, tiền lãi hơn 3.000 tỷ đồng, trong khi tiền mặt và khoản tương đương tiền chỉ hơn 43,1 tỷ đồng.

Tuy nhiên, bước ngoặt đến vào cuối năm 2019 khi đại gia Lê Thành mua lại hơn 55 triệu cổ phần của Tân Mai Group, trở thành cổ đông lớn nhất, sở hữu 61,47% của Tân Mai Group vào tháng 12/2019 gây xôn xao một thời gian. Số cổ phần còn lại do Tổng Công ty Giấy Việt Nam nắm giữ 22,73%; Nhà xuất bản Giáo dục nắm giữ 8,1% và cổ đông khác nắm giữ 7,43%.

Tháng 1/2020, đại gia Lê Thành chính thức Chủ tịch HĐQT thay ông Trần Đức Thịnh. Sau khi ngồi “ghế nóng”, ông Lê Thành cũng lần lượt giữ chức Chủ tịch HĐQT kiêm người đại diện pháp luật ở một loạt doanh nghiệp thành viên thuộc “hệ sinh thái” của Tân Mai Group, gồm: CTCP Tân Mai miền Trung, CTCP Tân Mai Lâm Đồng, CTCP Tân Mai Tây Nguyên và CTCP Tân Mai miền Đông.

Tất nhiên, sau khi nắm quyền thì ông Thành vẫn còn nhiều việc phải làm để cải thiện doanh nghiệp này. Ngoài vụ việc bị Ủy ban chứng khoán Nhà nước phạt thì đầu năm 2021, doanh nghiệp này cũng bị Cục Thuế Đồng Nai “bêu tên” bởi nợ 36,87 tỷ đồng tiền thuế tính tới hết ngày 28/2/2021.

Tiềm lực của đại gia Lê Thành

Nhắc tới doanh nhân Lê Thành, ông nổi tiếng bởi nắm ghế Viện trưởng Viện Kinh tế Xanh thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Ngoài ra, vị đại gia này còn đứng tên tại một số pháp nhân như CTCP Codona Thế kỷ 21 (chủ đầu tư dự án Khu du lịch sinh thái Hồ Sông Mây); Công ty TNHH Organic Life; CTCP Đầu tư Nông Trường Xanh; CTCP Đầu tư Kết nối xanh (Green Connection Invest) và CTCP Đầu tư Nhà quản lý (Manager Invest). Ông Thành hiện đang tham gia vào ban lãnh đạo của nhiều doanh nghiệp lớn như Lavifood, Đầu tư Tân Thành Long An (KCN Việt Phát).

Green Connection Invest hình thành vào tháng 1/2017, với quy mô vốn điều lệ 50 tỷ đồng. Cơ cấu cổ đông bao gồm: ông Lê Thành (góp 17,5 tỷ đồng, sở hữu 35% VĐL), ông Tô Dũng (góp 17,5 tỷ đồng, sở hữu 35% VĐL) và ông Phạm Ngô Quốc Thắng (góp 15 tỷ đồng, sở hữu 30% VĐL).

Theo Viettimes, “đại gia” Lê Thành cũng từng được biết tới là cựu Thành viên HĐQT, từng sở hữu 12,8% vốn điều lệ của CTCP Tổng Công ty Xây dựng số 1 (Mã CK: CC1).

Gần đây nhất, tại Đắk Lắk đại gia Lê Thành cũng lên tiếng đề xuất đầu tư 4 dự án trên địa bàn tỉnh này. 4 siêu dự án này đứng đằng sau bởi Công ty CP Tân Thành Holdings (Tân Thành Holdings) đề xuất với tổng vốn đầu tư lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.

Theo tìm hiểu, Tân Thành Holdings được thành lập vào tháng 11/2018. Doanh nghiệp có vốn điều lệ ban đầu 600 tỷ đồng, gồm ba cổ đông sáng lập: Lê Thành (90%), Lê Văn Nhân (5%), Lê Mã Long (5%). Trong đó, ông Lê Thành (sinh năm 1974) giữ chức Tổng Giám đốc kiêm người đại diện pháp luật.

Từ khi thành lập đến nay, Tân Thành Holdings đã nhiều lần thay đổi vị trí Tổng giám đốc và người đại diện pháp luật từ ông Lê Thành sang bà Dương Thị Bích Diệp (1982), rồi bà Lê Hồng Bảo Trâm (SN 1983). Chủ tịch HĐQT kiêm người đại diện theo pháp luật hiện nay là ông Phan Diễn Vĩ (SN 1971).

Tính đến ngày 31/12/2019, quy mô tổng tài sản của Tân Thành Holdings rơi vào khoảng 1.310,6 tỉ đồng – cao gấp 2,3 lần so với vốn chủ sở hữu ở mức 565,7 tỉ đồng.

Theo Baomoi.com

Xét xử trực tuyến: Nên áp dụng với những vụ án có tính chất, tình tiết đơn giản

 Thảo luận trực tuyến về Dự thảo Nghị quyết tổ chức phiên tòa trực tuyến tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, nhiều đại biểu đề nghị việc tổ chức phiên tòa trực tuyến cần được tiến hành thận trọng, đảm bảo quyền con người, quyền công dân do xét xử trực tuyến là hình thức xét xử mới, chưa được các luật tố tụng hiện hành quy định.

Đề xuất thí điểm thực hiện trong thời hạn 3 năm

Ngày 24/10, Quốc hội tiếp tục thảo luận trực tuyến về các báo cáo công tác của các cơ quan, trong đó có Dự thảo Nghị quyết về tổ chức phiên tòa trực tuyến. Cho ý kiến đóng góp xây dựng Dự thảo Nghị quyết phiên tòa trực tuyến, đại biểu Lê Tất Hiếu (đoàn Vĩnh Phúc) cho rằng, với những vụ việc phức tạp, bị cáo không nhận tội, vụ án có nhiều đồng phạm tham gia… vẫn cần xét xử trực tiếp. Xét xử trực tuyến chỉ áp dụng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ việc dân sự, hành chính có tính chất, tình tiết đơn giản.

Đại biểu đoàn Vĩnh Phúc cũng cho biết, đây là vấn đề mới, pháp luật hiện hành chưa quy định nên cần chuẩn bị chu đáo, có quy định chi tiết để tập huấn, hướng dẫn cho các cơ quan tiến hành và tham gia tố tụng.

Cũng nêu quan điểm về vấn đề này, đại biểu Lê Thanh Hoàn (đoàn Thanh Hóa) cho biết, qua nghiên cứu các đạo luật tố tụng cho thấy, hiện tại chưa quy định rõ ràng về phiên tòa trực tuyến, mà chỉ quy định về nguyên tắc xét xử trực tiếp và tại phòng xử án. Theo ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ ba, đây là vấn đề liên quan đến Hiến pháp, liên quan đến quyền con người, quyền công dân.

Chính vì vậy, đại biểu Lê Thanh Hoàn đề nghị cần phải nghiên cứu thận trọng và báo cáo với cơ quan có thẩm quyền trước khi trình với Quốc hội. Đại biểu tán thành với chủ trương trình Quốc hội là đúng thẩm quyền. Đây là nội dung mới vì xác định có tính chất lâu dài để xu hướng tới xây dựng tòa án điện tử, tòa án thông minh theo chủ trương của Đảng. Do đó, đại biểu đề nghị Quốc hội chỉ nên ban hành Nghị quyết cho phép tòa án thực hiện thí điểm trong thời hạn 3 năm về việc tổ chức phiên tòa trực tuyến theo khoản 2 Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo cơ sở pháp lý.

“Nên lựa chọn những vụ án hình sự ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và chứng cứ rõ ràng, những vụ án dân sự hành chính có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng đầy đủ. Lựa chọn một số tỉnh thành có điều kiện để tránh đầu tư dàn trải. Sau thời gian thực hiện thì Tòa án nhân dân tối cao sẽ chủ trì và phối hợp với cơ quan đánh giá tổng kết việc thi hành để sửa đổi các luật tố tụng cho phù hợp”, đại biểu Lê Thanh Hoàn kiến nghị.

Cần rà soát, bố trí nguồn lực cho xét xử trực tuyến

Tại phiên thảo luận, nhiều đại biểu bày tỏ quan điểm và cho rằng, xét xử trực tuyến là hình thức xét xử mới, chưa có tiền lệ, chưa được các luật tố tụng hiện hành quy định, liên quan đến quyền con người, quyền công dân nên cần được tiến hành thận trọng, chắc chắn, cần được tổ chức thí điểm để rút kinh nghiệm. Đồng thời, cần tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành… Bên cạnh đó, một số ý kiến của đại biểu Quốc hội cũng cho rằng, cần phải đảm bảo nguồn lực, nhân lực sẵn sàng để thực hiện có hiệu quả với các phiên tòa trực tuyến.

Đề cập đến nội dung này, đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà (đoàn Hà Nội) cho rằng, phán quyết của tòa án có ảnh hưởng rất lớn đến quyền con người, quyền công dân và những vấn đề liên quan đến bảo vệ chế độ, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân và công lý.

Vì vậy, để bảo đảm tính khả thi của nghị quyết, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về tố tụng, nhất là nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, nguyên tắc xét xử công bằng, công khai, nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc xét xử liên tục… đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà đề nghị Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan phải bảo đảm nguồn nhân lực, vật lực, tài lực để tổ chức thành công phiên tòa trực tuyến.

Bên cạnh đó, đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà đề nghị cần đẩy nhanh, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn các kỹ năng tổ chức và tham gia phiên tòa trực tuyến. Bảo đảm các tiêu chí chung đối với hệ thống phần mềm xét xử trực tuyến. Thực hiện xét xử trực tuyến trên công nghệ mạng internet, hỗ trợ nhiều giao thức. Không truyền, lưu trữ các dữ liệu phát sinh trong quá trình xét xử trực tuyến cho các đối tượng không được cấp quyền truy cập.

“Bảo đảm hệ thống phần mềm xét xử trực tuyến phải có những chức năng đáp ứng tiêu chí về âm thanh, hình ảnh, chia sẻ màn hình, điều khiển của chủ tọa phiên tòa, đưa người vào hoặc đẩy người ra khỏi phiên tòa. Bảo đảm hệ thống phần mềm phải đáp ứng những tiêu chí về hiệu năng, số lượng điểm cầu và thời gian hoạt động liên tục. Bảo đảm an toàn, bảo mật trong xét xử trực tuyến…”, đại biểu đoàn Hà Nội nhấn mạnh.

Cùng chung quan điểm này, đại biểu Nguyễn Thị Yến (đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu) cho biết, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân cấp huyện.

Mặt khác, quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và hành chính vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện. Do đó, để triển khai thực hiện tốt quy định này, khi Nghị quyết có hiệu lực, đại biểu cho rằng cần phải rà soát, đánh giá kỹ lưỡng về điều kiện đảm bảo thực hiện việc tổ chức phiên tòa trực tuyến tại hơn 700 tòa án cấp huyện, tòa án quân sự và các cơ sở tạm giữ, tạm giam do ngành công an quản lý.

Từ đây, đại biểu nhấn mạnh tính cấp thiết phải có ngân sách để đầu tư, trang bị các thiết bị điện tử, kỹ thuật, công nghệ cho việc kết nối các điểm cầu thành phần để phục vụ công tác xét xử trực tuyến cũng như kinh phí để tổ chức các phiên tòa trực tuyến. Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội và dự thảo thông tư liên tịch do Ban soạn thảo trình chưa đề cập đến. Vì vậy, đề nghị Quốc hội và Ban soạn thảo cân nhắc có điều khoản quy định về nội dung ngân sách tổ chức thực hiện để thuận lợi cho tòa án nhân dân các cấp và các cơ quan tố tụng khi triển khai thực hiện Nghị quyết.

Theo Baomoi.com