Tận dụng kinh tế số, DN nông nghiệp ‘dù nhỏ nhưng không lẻ’

Ngày xưa, nếu làm ăn nhỏ thì chỉ có cách liên kết với nhau để thành lớn và phải bán cho công ty trung gian. Các công ty này được hưởng lợi nhiều nhất. Trong thời gian tới, với sự trợ giúp của các nền tảng số, các hộ kinh doanh dù vẫn nhỏ nhưng không lẻ vì nếu liên kết lại với nhau sẽ xóa bớt trung gian và tạo sự kết nối trực tiếp. Đây sẽ là mô hình kinh tế nông nghiệp hiện đại trong thời gian tới.

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, mọi thứ thay đổi thường xuyên, thì người làm kinh tế nông nghiệp cần cần nhanh nhạy trong việc nắm bắt các nhu cầu mới

Đây là ý kiến của TS Vũ Tiến Lộc, đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) tại Tọa đàm “Nông nghiệp: Trụ đỡ vững chắc trong biến động” vừa được Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức.

Thay đổi tư duy, kết hợp quy nhỏ và lớn

Chủ tịch VIAC Vũ Tiến Lộc phân tích, người Việt Nam phần lớn sinh ra từ nông thôn, đây là nền tảng gốc rễ xã hội Việt Nam. Quá trình công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ nông nghiệp nông thôn sang công nghiệp. Tuy nhiên, lợi thế năng lực cạnh tranh cốt lõi của Việt Nam vẫn là nông nghiệp, du lịch, công nghệ thông tin…

Trong thời gian qua, nông nghiệp có bước phát triển mạnh mẽ, có nhiều đóng góp cho GDP, nhưng quan trọng nhất là dư địa của ngành nông nghiệp còn vô cùng lớn, tuy vậy cũng còn không ít thiếu sót cần khắc phục để tạo ra năng lực cạnh tranh mới.

Ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, để chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp cần phải có tinh thần doanh nhân trong doanh nghiệp (DN), phải hình thành doanh nhân trong nông nghiệp, đó là lưu ý quan trọng nhất.

Hướng phát triển của nông nghiệp sẽ phải kết hợp cả quy mô lớn với quy mô nhỏ, chúng ta biết tác động của kinh tế số bây giờ, một hộ nông dân trồng hoa tại Đà Lạt hoặc một người trồng cà phê ở Đắk Lắk cũng có thể vươn tới thị trường thế giới nếu làm theo kiểu của một doanh nhân, của một nhà khởi nghiệp.

“Phải tích tụ, tập trung thành những chuỗi lớn, đồng thời không xóa đi vai trò của những hộ kinh doanh nhỏ, nhỏ nhưng không lẻ, phải liên kết lại với nhau. Làm sao nhỏ nhưng phải kết nối lại theo chuỗi, như những giọt nước kết nối với nhau thành biển cả, chứ không phải thủ tiêu cái nhỏ, cái nhỏ kết nối sẽ thành chuỗi lớn”, ông Vũ Tiến Lộc nói.

Không đặt nặng vấn đề quy mô, ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, các hộ nông dân nhỏ cũng rất đẹp nhưng với điều kiện phải liên kết lại thành nền tảng, kết nối với thị trường, kết nối với các đầu cung ứng và các đầu tiêu thụ. Ví dụ, một hộ nông dân có thể kết nối với một nhà khoa học đang ngồi ở viện nghiên cứu, người nông dân có thể tiếp thu lời khuyên từ công thức của các nhà khoa học để triển khai và bán ra thị trường thế giới.

“Trong thời gian tới, với sự trợ giúp của các nền tảng số, các hộ kinh doanh dù vẫn nhỏ nhưng không lẻ vì nếu liên kết lại với nhau sẽ xóa bớt trung gian và tạo sự kết nối trực tiếp. Đây sẽ là mô hình kinh tế nông nghiệp hiện đại trong thời gian tới”, ông Vũ Tiến Lộc nói.

TS Vũ Tiến Lộc: Các hộ nông dân nhỏ cần liên kết lại thành nền tảng, kết nối với thị trường, kết nối với các đầu cung ứng và các đầu tiêu thụ 

Tận dụng sức mạnh từ kết nối

Về thực trạng nền nông nghiệp, Chủ tịch VIAC phân tích, nền nông nghiệp nước ta có nhiều bước chuyển mình quan trọng nhưng đến nay vẫn ở trình độ thấp so với thế giới, sản phẩm thô, chủ yếu gia công và phải nhập khẩu giống, phân bón, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu, có một số ngành nhập khẩu 80-90% từ nước ngoài nên giá trị gia tăng nông nghiệp không cao; thương hiệu, chất lượng, giá cả chưa cạnh tranh và chưa vào được phân khúc cao của thị trường.

Điều kiện tự nhiên nước ta có các vùng khí hậu, thổ nhưỡng, nên cần phát triển đúng theo phương thức thuận thiên, tận dụng các điều kiện để có các sản phẩm chất lượng cao hơn.

Hiện tại, các DN FDI chiếm lĩnh nhiều lĩnh vực quan trọng như chăn nuôi lợn, chăn nuôi gia cầm, nhưng lĩnh vực sữa thì các DN Việt chiếm lĩnh thị trường khá tốt. Vấn đề là tương quan với các DN FDI. Các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp trọng yếu phải chăng người Việt phải giữ vị trí tương xứng, thậm chí chủ đạo, mang lại giá trị tăng cao hơn cho Việt Nam.

“Về xuất khẩu ra thế giới, công tác truyền thông tương đối tốt nhưng không nên chỉ qua vài hiện tượng nhỏ lẻ mà ảo tưởng là ta đã chiếm lĩnh thị trường thế giới với phẩm cấp cao”, ông Vũ Tiến Lộc thẳng thắn nhận định.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thay đổi tư duy, ông Vũ Tiến Lộc nhận định, tất cả nông dân bây giờ cũng đều phải đứng trước nhu cầu khởi nghiệp. Khi chúng ta quan niệm rằng nền nông nghiệp không chỉ là làm nông mà là làm kinh tế nông nghiệp, kinh doanh nông nghiệp thì chủ thể phải có tinh thần của người kinh doanh.

Đại diện VIAC cho rằng, người nông dân bây giờ cũng phải tính đầu tư vào đâu, sản xuất kinh doanh cái gì, bán đi đâu mới hiệu quả? Vì vậy, người nông dân cần phải có tinh thần của người kinh doanh. Hộ nông dân cũng phải tiến hành sản xuất kinh doanh trên tinh thần của doanh nhân, bản chất là đầu tư để tìm lợi nhuận, để làm giàu cho mình, đó mới là tinh thần doanh nhân, tinh thần khởi nghiệp.

“Chúng ta có thể làm chương trình “Nông dân khởi nghiệp” trên mạng Internet, hoạt động thường xuyên để người nông dân ở vùng xa, vùng sâu có thể tiếp cận được và nghe những bài giảng, thông tin, trao đổi kinh nghiệm. Chúng ta tập trung vào những nền tảng như vậy để hỗ trợ bà con nông dân tiếp cận được với kiến thức, thông tin; được đào tạo; được tư vấn, hỗ trợ… Bằng cách đó, chúng ta có thể đào tạo cấp tập, nâng cao kiến thức của nông dân”, ông Vũ Tiến Lộc gợi ý về cách nâng cao nhân lực nông nghiệp.

Đại diện VIAC cho biết, đã có những dấu hiệu bước đầu của xu hướng mới khi có ngày càng nhiều những sinh viên sau khi ra trường đã không vào làm thuê cho công ty nào đó thành phố mà về quê để lập một trang trại nhỏ.

“Đó là tín hiệu theo tôi là quan trọng, hãy về nông thôn, hãy làm nông nghiệp, nhưng với tinh thần của một DN và làm với kiến thức, với trình độ khoa học, với chuyển đổi số…”, ông Vũ Tiến Lộc chia sẻ với những bạn trẻ có ước vọng làm giàu từ nông nghiệp.

Đại diện VIAC gợi ý, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, mọi thứ thay đổi thường xuyên, thì người làm kinh tế nông nghiệp cần cần nhanh nhạy trong việc nắm bắt các nhu cầu mới. Trong đó, ngoài một sản phẩm cụ thể, người tiêu dùng còn có xu hướng muốn kết nối giữa người tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp với các hộ nông dân. Thậm chí giao tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng cũng quan trọng với giao tiếp xã hội, tạo lên một cộng đồng mới, giá trị nhân văn, giá trị con người mới…

Đó chính là cơ hội cho kinh tế hộ, cơ hội cho các cở sở sản xuất nhỏ trong nông nghiệp có thể kết nối với thị trường trong nước và thế giới.

“Tôi có thể ví hình ảnh “một gia đình châu Âu có thể mua một bó hoa vẫn còn đẫm sương trong công viên của Đà Lạt” được mua và chuyển về bằng máy bay… Đây là kết nối nền tảng kinh tế số. Chúng ta hoàn toàn có thể phát triển một nền nông nghiệp mà quy mô các cơ sở sản xuất dù nhỏ nhưng vẫn đạt được giá trị gia tăng lớn, tạo ra sản lượng lớn”, ông Vũ Tiến Lộc kỳ vọng.

Theo Baomoi.com

Tháng 10, số DN thành lập mới tăng cả về lượng và vốn đăng ký

Số doanh nghiệp thành lập mới tháng Mười của cả nước đã tăng 111% về số lượng và 74% vốn đăng ký cũng như số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 30% so với tháng Chín.

Cả nước có 8.200 doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký 108.600 tỷ đồng và 58.800 lao động trong tháng Mười. 

Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu có sự phục hồi, những tín hiệu tích cực trong tình hình đăng ký doanh nghiệp cho thấy sự ủng hộ của người dân và doanh nghiệp trong việc Chính phủ chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch COVID-19 sang thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả.

Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/10, số doanh nghiệp thành lập mới tháng Mười tăng cả về lượng và vốn đăng ký cũng như số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động so với tháng Chín.

Cụ thể, cả nước có 8.200 doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký 108.600 tỷ đồng và 58.800 lao động, tăng tương ứng 111%, 74% và 18% so với tháng trước đó. Tuy nhiên, số doanh nghiệp thành lập mới so với cùng kỳ năm 2020 vẫn giảm 33% về số doanh nghiệp, giảm 35% về số vốn đăng ký và giảm 19% về số lao động.

Điểm tích cực được báo cáo chỉ ra, đó là cả nước ghi nhận 4.304 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng và tăng 30% so với tháng Chín, nhưng vẫn giảm 15% so với cùng kỳ năm 2020.

Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống, nền kinh tế cũng chứng kiến gần 3.500 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 56% so với tháng Chín và tăng 6% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, hơn 3.000 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tương ứng tăng 22% và giảm 15% cộng thêm 800 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 33% và giảm 43%.

Như vậy, tính chung 10 tháng, cả nước có 93.700 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, có tổng số vốn đăng ký 1,3 triệu tỷ đồng, với tổng số 708.000 lao động, giảm 16% về số doanh nghiệp, giảm 18% về vốn đăng ký và giảm 17% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.

Tính cả gần 1,9 triệu tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của doanh nghiệp, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 10 tháng xấp xỉ 3,2 triệu tỷ đồng và giảm 18,2% so với cùng kỳ. Trong 10 tháng qua, cả nước có hơn 35.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động lên 129.000 doanh nghiệp, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước.

Ngoài ra, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 48.500 doanh nghiệp, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước và 35.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 15,7%; 13.600 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 0,8%. Như vậy, bình quân một tháng, nền kinh tế có 9.700 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Theo Baomoi.com

Bộ Xây dựng đề xuất dành 65.000 tỷ đồng hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội

Theo Bộ Xây dựng, kiến nghị trên nhằm góp phần thực hiện ‘mục tiêu kép’ mà Chính phủ đã đề ra, đó là đảm bảo an sinh xã hội và nhà ở cho công nhân, người lao động trong khu công nghiệp.

Ngày 28/10, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cho biết vừa ký văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ kiến nghị đưa vào Chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế-xã hội sau dịch COVID-19 2 gói tín dụng thực hiện chính sách nhà ở xã hội trong Chương trình phục hồi kinh tế bền vững đến năm 2023, với tổng giá trị 65.000 tỷ đồng.

Cụ thể, gói tín dụng trị giá 15.000 tỷ đồng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, được Bộ Xây dựng đề xuất với mục đích cấp vốn 14.000 tỷ đồng cho Ngân hàng Chính sách xã hội để khách hàng cá nhân vay mua, thuê mua hoặc xây dựng, cải tạo sửa chữa nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở.

1.000 tỷ đồng còn lại là cấp bù lãi suất cho các ngân hàng thương mại do Nhà nước chỉ định cho các chủ đầu tư xây dựng nhà ở xã hội và cho các đối tượng cá nhân được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội vay theo quy định.

Gói tín dụng thứ hai có tổng giá trị 50.000 tỷ đồng theo hình thức Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại để công nhân, người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất được vay ưu đãi từ chương trình để mua, thuê mua nhà ở xã hội; chủ đầu tư dự án nhà lưu trú cho công nhân khu công nghiệp thuê; chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua theo quy định của Luật Nhà ở.

Theo Bộ Xây dựng, kiến nghị trên nhằm góp phần thực hiện “mục tiêu kép” mà Chính phủ đã đề ra, đó là đảm bảo an sinh xã hội-nhà ở cho các đối tượng yếu thế như: Người thu nhập thấp, công nhân, người lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất.

Bên cạnh đó, các gói tín dụng trên cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế bền vững, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp gắn với hỗ trợ phát triển thị trường bất động sản; góp phần thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế bền vững đến năm 2023 được Chính phủ ban hành tại Nghị quyết 75/NQ-CP.

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, số liệu tổng hợp chưa đầy đủ của các địa phương cho thấy trong giai đoạn 2021-2025, nhu cầu về nhà ở xã hội cho các đối tượng là người thu nhập thấp khu vực đô thị và công nhân khu công nghiệp chiếm khoảng 294.600 căn; tổng mức đầu tư khoảng 220.000 tỷ đồng.

Trong số đó, nhà ở cho người thu nhập thấp khu vực đô thị khoảng 131.100 căn, tổng mức đầu tư khoảng 138.000 tỷ đồng; nhà ở cho công nhân khu công nghiệp là 163.500 căn, tổng mức đầu tư khoảng 82.000 tỷ đồng.

Số lượng các dự án đang triển khai là 278 dự án với quy mô xây dựng khoảng 274.000 căn, tổng mức đầu tư khoảng 214.000 tỷ đồng; trong đó dự án nhà ở cho người thu nhập thấp là 178 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 140.000 căn hộ, tổng mức đầu tư khoảng 147.000 tỷ đồng; 100 dự án nhà ở cho công nhân khu công nghiệp khoảng 134.000 căn hộ, tổng mức đầu tư khoảng 67.000 tỷ đồng./.

Theo Baomoi.com

Những yêu cầu về hôn nhân – gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án

Câu hỏi: Theo quy định pháp luật thì những yêu cầu nào về hôn nhân – gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án? Bà Cao Thị Lượng (huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Căn cứ Điều 29, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, những yêu cầu về hôn nhân – gia đình sau thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án: yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân – gia đình.

Cũng theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu sau: yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn; yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi; yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hôn nhân – gia đình; yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của tòa án; yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân – gia đình; yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân – gia đình…

Trên đây là nội dung liên quan đến những yêu cầu về hôn nhân – gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Tòa án sẽ đưa ‘trợ lý ảo’ vào hỗ trợ xét xử

Dự kiến đầu năm 2022, TAND Tối cao sẽ ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (trợ lý ảo) cho thẩm phán khi xét xử.

Cụ thể, TAND Tối cao đang kết hợp với một tập đoàn công nghệ để xây dựng “trợ lý ảo” cho các thẩm phán và đưa vào sử dụng từ đầu năm 2022.

Theo đó, “Trợ lý ảo” sẽ cung cấp hệ thống pháp lý từ văn bản pháp luật đến thông tư và sẽ đưa ra gợi ý với từng vụ việc phải áp dụng những quy định nào. Nếu được nạp dữ liệu về vụ án, “trợ lý ảo” có khả năng đề xuất tới thẩm phán tham khảo áp dụng xét xử về từng tội danh cụ thể.

Trước đó, chiều 15/10, Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Hòa Bình đã báo cáo về nội dung trên tại buổi làm việc của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc với Ban cán sự Đảng TAND Tối cao.

Chủ tịch nước ghi nhận cố gắng của hệ thống tòa án khi khắc phục khó khăn của dịch bệnh, đảm bảo các chỉ tiêu Quốc hội giao trong công tác xét xử, giải quyết các vụ án. Sau mỗi phiên tòa, niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp có nâng cao hay không phụ thuộc rất nhiều vào thẩm phán.

Bên cạnh đó, ngành tòa án cần rút kinh nghiệm, ảnh hưởng niềm tin của nhân dân. Ngoài ra, trong ngành còn tồn tại “một bộ phận rất nhỏ thẩm phán” có trình độ, trách nhiệm, năng lực hạn chế.

Ngành tòa án cần xây dựng tòa án điện tử, tổ chức xét xử trực tuyến để tạo điều kiện cho người dân dễ tham dự phiên tòa, không chỉ trong COVID-19 mà cả về sau. Chúng tôi rất mong xét xử trực tuyến”, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nói.

Thay mặt Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, Chánh án Nguyễn Hòa Bình khẳng định, hệ thống tòa án sẽ quán triệt cải cách tư pháp thời gian tới nhưng mong “có sự ủng hộ của các bộ ngành bởi nếu không hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau sẽ khó thực hiện”. Ngành sẽ xây dựng tòa án điện tử, giúp quản trị về “con người, án từ, tài chính” đồng thời cung ứng các dịch vụ công cho người dân.

Ngoài ra, một số hoạt động tố tụng sẽ được tiến hành online như xét xử trực tuyến vụ án, hòa giải trực tuyến…

Theo Baomoi.com

Hiểu rõ pháp luật để tránh tình trạng đơn thư vượt cấp

Ông Nguyễn Văn Tuất ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh trình bày: ‘Do không biết Luật Khiếu nại quy định người dân có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày sau khi nhận được quyết định hành chính, nên khi nhận được quyết định giải quyết từ cơ quan hành chính cấp huyện gây ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của gia đình, tôi khiếu nại muộn, khi quyết định đã ban hành gần 11 tháng.

Tôi không nắm được luật là lỗi của tôi nhưng trong quyết định hành chính cũng không nói rõ tôi có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày. Vì quá thời hạn nên khiếu nại của tôi không được thụ lý. Với trường hợp này, tôi phải xử lý như thế nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình?
Luật sư xin tư vấn như sau: 

Điều 9, Luật Khiếu nại quy định: “Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính”. Điều 115, Luật Tố tụng hành chính quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính… trong trường hợp không đồng ý với quyết định… hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định…”.

Điều 116, Luật Tố tụng hành chính quy định thời hiệu khởi kiện là “1 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính…”. Theo trình bày của ông Nguyễn Văn Tuất và đối chiếu với những quy định trên thì thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính đã hết nhưng thời hạn khởi kiện tại tòa (1 năm) vẫn còn. Vì vậy, ông Tuất có thể nộp đơn tại tòa án nhân nhân tỉnh để được xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình.

Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, mỗi công dân cần hiểu biết và thực hiện nghiêm. Công dân có thể tìm hiểu pháp luật qua sách báo, phương tiện truyền thông, internet hoặc nhờ sự tư vấn của các trung tâm hỗ trợ pháp lý, các luật sư… khi gặp vướng mắc để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp.

Để quá thời hiệu khiếu nại như trường hợp ông Nguyễn Văn Tuất trước hết là lỗi của công dân, tuy nhiên, thiết nghĩ, các quyết định giải quyết khi ban hành cần có nội dung hướng dẫn công dân các quyền, nghĩa vụ liên quan để công dân hiểu rõ, từ đó có thể giải quyết từ cơ sở, tránh tình trạng đơn thư khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài.

Trên đây là nội dung liên quan việc hết thời gian khiếu nại quyết định hành chính thì giải quyết như nào. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả có phải đền bù kinh phí cho Nhà nước?

Câu hỏi: Thời gian gần đây ở một số địa phương phát hiện ra tình trạng cán bộ công chức, viên chức sử dụng bằng cấp, chứng chỉ giả đang làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Vậy dưới góc độ pháp lý hành vi trên sẽ bị xử lý ra sao? Hành vi sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả có phải đền bù kinh phí cho Nhà nước? (Chị Hoa – Phố Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Theo Nghị định112/2020 NĐ-CP của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ công chức thì hành vi sử dụng bằng giả của công chức, viên chức sẽ phải chịu hình thức kỷ luật buộc thôi việc tại Khoản 3, Điều 13 và Khoản 4 Điều 19 của Nghị định này.

Điều 13. Áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức.

Hình thức kỷ luật buộc thôi việc áp dụng đối với công chức có hành vi vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc hạ bậc lương đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý mà tái phạm;

2. Có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 8 Nghị định này;

3. Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp để được tuyển dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị;

4. Nghiện ma túy; đối với trường hợp này phải có kết luận của cơ sở y tế hoặc thông báo của cơ quan có thẩm quyền;

5. Ngoài quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều này, hình thức kỷ luật buộc thôi việc còn được áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định này.

Điều 19. Áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với viên chức

Hình thức kỷ luật buộc thôi việc áp dụng đối với viên chức có hành vi vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Đã bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với viên chức quản lý hoặc cảnh cáo đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý mà tái phạm;

2. Có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 16 Nghị định này;

3. Viên chức quản lý có hành vi vi phạm lần đầu, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 17 Nghị định này;

4. Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp để được tuyển dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị;

5. Nghiện ma túy; đối với trường hợp này phải có xác nhận của cơ sở y tế hoặc thông báo của cơ quan có thẩm quyền.

Liên quan đến vấn đề đền bù chi phí đào tạo của công chức, viên chức khi bị kỷ luật với hình thức buộc thôi việc thì tại Nghị định 101/2017/NĐ-CP về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có quy định tại Điều 7. Đền bù chi phí đào tạo.

Cán bộ, công chức, viên chức, được cử đi đào tạo từ trình độ trung cấp trở lên bằng nguồn ngân sách nhà nước hoặc kinh phí của cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức phải đền bù chi phí đào tạo khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Tự ý bỏ học, bỏ việc hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc trong thời gian đào tạo.

2. Không được cơ sở đào tạo cấp văn bằng tốt nghiệp.

3. Đã hoàn thành và được cấp văn bằng tốt nghiệp khóa học nhưng bỏ việc hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc khi chưa phục vụ đủ thời gian cam kết quy định tại Điều 5 hoặc Điều 6 Nghị định này.”

Như vậy thì các trường hợp bị buộc thôi việc của công chức, viên chức không nằm trong các trường hợp phải đền bù chi phí đào tạo của Nghị định này.

Khi công chức, viên chức bị kỷ luật với hình thức buộc thôi việc do sử dụng văn bằng chứng chỉ giả mặc dù không phải đền bù chi phí đào tạo, nhưng với hành vi sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả này có thể bị truy cứu trách nhiệm Hình sự được Quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 với hình phạt cao nhất lên đến 7 năm tù và phạt tiền lên đến 100 triệu đồng.

Điều 341. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác;

d) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;

đ) Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên;

b) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

c) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Trên đây là nội dung liên quan đến việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả có phải đền bù kinh phí cho Nhà nước hay không. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

Phát triển nhà ở cho công nhân vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đă ban hành nhiều chủ trương, chính sách, thể hiện sự quan tâm sâu sắc, giải quyết các vấn đề về nhà ở cho công nhân tại khu công nghiệp. Tuy nhiên, việc quản lý và phát triển nhà ở xă hội nói chung và nhà ở cho công nhân nói riêng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Hà Nội là một trong những địa phương tiên phong trong xây dựng nhà ở công nhân theo các hình thức vốn đầu tư từ ngân sách và vốn do DN tự bỏ ra.

Nhà ở dành cho công nhân còn ít so với nhu cầu

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, trên địa bàn cả nước hiện đă hoàn thành 266 dự án nhà ở xă hội, quy mô xây dựng khoảng hơn 142.000 căn với tổng diện tích hơn 7,1 triệu m2; đang tiếp tục triển khai 278 dự án, quy mô xây dựng khoảng 276.000 căn với tổng diện tích khoảng 13,8 triệu m2. Trong đó, đối với nhà ở xă hội dành cho công nhân khu công nghiệp, các tỉnh, thành phố đă đă hoàn thành việc đầu tư xây dựng 121 dự án, quy mô xây dựng khoảng 54.000 căn hộ với tổng diện tích 2,7 triệu m2; đang tiếp tục triển khai 100 dự án, quy mô xây dựng khoảng 134.000 căn hộ với tổng diện tích 6,7 triệu m2.

Tuy nhiên, số lượng nhà ở dành cho công nhân khu công nghiệp vẫn còn rất ít so với nhu cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn từ đầu năm 2021 đến nay, chưa có dự án nhà ở xă hội dành cho công nhân được hoàn thành bàn giao do ảnh hưởng chung của dịch bệnh nên hầu hết các dự án bị chậm tiến độ.

Bộ Xây dựng cho rằng, quỹ đất 20% để thực hiện xây nhà ở xă hội hay nhà lưu trú cho công nhân nhiều nơi không có hoặc không được triển khai. Bộ Xây dựng đă có văn bản chỉ đạo đến các địa phương khi lập, phê duyệt quy hoạch xây dựng khu công nghiệp, phải bố trí diện tích đất phù hợp trên địa bàn để xây dựng nhà công nhân, đảm bảo đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xă hội để phục vụ công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp đó.

Bộ Xây dựng cũng yêu cầu các địa phương phải có cơ chế, giải pháp cụ thể, tạo môi trường thuận lợi về đất đai, thủ tục hành chính, hỗ trợ, khuyến khích, thu hút các DN tích cực tham gia phát triển nhà ở xă hội. Trong đó cần chú ý đến nhà cho công nhân thuê tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, TP.

Cần giải pháp phát triển nhà ở công nhân

Một trong những nguyên nhân chính khiến việc sản xuất kinh doanh tại các khu công nghiệp khó khăn, chuỗi cung ứng sản xuất, lao động bị đứt găy do dịch bệnh là các địa phương chưa quan tâm đến đầu tư nhà lưu trú cho công nhân, dẫn đến khó đảm bảo thực hiện “3 tại chỗ”.

Để tránh những rủi ro trong tương lai, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững. Mới đây, Bộ Xây dựng vừa đề nghị bổ sung vào chương tŕnh phục hồi kinh tế giai đoạn 2022-2023 gói tín dụng 30.000 tỷ để xây nhà ở xă hội, nhà cho công nhân. Đây là gói tín dụng tái cấp vốn cho chủ đầu tư nhà ở xă hội, nhà ở công nhân khu công nghiệp, chế xuất. Gói tín dụng sẽ góp phần thực hiện mục tiêu kép là vừa đảm bảo an sinh xă hội cho người thu nhập thấp, công nhân, vừa giúp kinh tế phục hồi, phát triển bền vững.

Để gói hỗ trợ cần đến đúng người, đúng đối tượng, một số chuyên gia cho rằng khi triển khai chính sách phải công khai, minh bạch như: Cần trưng bày bản vẽ, thiết kế, vị trí, chủ trương thực hiện dự án cho công nhân, các đối tượng cần mua đăng kí. Đặc biệt, phối hợp với Bộ Lao động Thương binh – Xă hội để đối chiếu danh sách những người lao động, công nhân khó khăn, đối tượng cần nhà thực sự.

Nhận định về đề nghị mới của Bộ Xây dựng , một số quan điểm cho rằng, gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng, chỉ giải quyết được 1 vấn đề duy nhất, đó là vốn. Tuy nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khiến các DN không hào hứng phát triển ḍng nhà ở xă hội, như: Các thủ tục hành chính, xin cấp phép đầu tư, xây dựng c̣n phức tạp, thời gian hoàn thiện thủ tục pháp lư có thể kéo dài; quỹ đất dành cho phát triển nhà ở xă hội đang thiếu hụt trầm trọng, lợi nhuận của các dự án nhà ở xă hội thấp, bị giới hạn bởi tỷ lệ lợi nhuận dưới 10%, trên tổng đầu tư dự án; Nếu phát triển trong nội đô các TP lớn rất khó đưa giá về về mức thấp nhất. Nhưng nếu đưa các dự án nhà ở xă hội ra xa trung tâm, tính thanh khoản dự án lại không cao…

Vì vậy, để thu hút đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, Chính phủ và Bộ Xây dựng cần giải quyết từng bước những nút thắt tồn đọng. Trước mắt là giải quyết 2 vấn đề chính là nguồn vốn, và giảm thủ tục hành chính, giảm thời gian hoàn thiện hồ sơ pháp lý, nhằm khuyến khích DN phát triển những dự án này.

Tại buổi làm việc của Thủ tướng với Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam mới đây, Chủ tịch Liên đoàn Lao động TP Hà Nội Nguyễn Phi Thường cũng đề nghị Chính phủ tổ chức Hội nghị toàn quốc để đánh giá việc thực hiện Quyết định số 655/QĐ-TTg ngày 12-5-2017 của Thủ tướng Chính phủ “Về xây dựng các thiết chế công đoàn tại các khu công nghiệp và chế xuất” kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai, thực hiện. Khi phê duyệt xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần đồng bộ với việc đầu tư xây dựng nhà ở, trường học, các thiết chế cho công nhân lao động.

Theo Baomoi.com

Thanh tra việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất hàng loạt doanh nghiệp

Các đoàn công tác sẽ kiểm tra việc chuyển đổi mục đích từ đất sản xuất, kinh doanh sang kinh doanh đất, xây dựng nhà ở giai đoạn 2011-2019.

Thanh tra Chính phủ vừa có quyết định thanh tra việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất sản xuất, kinh doanh sang kinh doanh đất, xây dựng nhà ở giai đoạn 2011-2019 của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc quản lý của các Bộ, ngành như Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp…

Thời kỳ thanh tra từ 2011-1019. Tuy nhiên, khi cần thiết đoàn công tác có thể thanh tra những nội dung liên quan trước hoặc sau thời kỳ thanh tra.

Thời hạn thanh tra là 80 ngày làm việc thực tế tại đơn vị kể từ ngày công bố Quyết định thanh tra (không kể ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định).

Đoàn thanh tra gồm 11 người, có nhiệm vụ tiến hành thanh tra theo Nội dung quy định và Kế hoạch tiến hành thanh tra được Tổng thanh tra Chính phủ phê duyệt.

Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên Đoàn thanh tra thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra và các quy định khác của pháp luật hiện hành.

Theo Baomoi.com

Trường hợp người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Bạn đọc hỏi:

Tôi làm việc tại Công ty A được 1 năm, hợp đồng lao động giữa tôi với công ty có thời hạn 1 năm. Hiện tại tôi đang mang thai đến tháng thứ 7 và vẫn đi làm. Do mang thai nên sức khỏe tôi bị giảm sút, bởi vậy đôi khi không hoàn thành công việc được giao. Tôi đã bị lập biên bản hai lần với lỗi ‘không hoàn thành công việc được giao’. Mới đây, công ty đã thông báo và ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với tôi vì tôi thường xuyên không hoàn thành công việc. Tôi muốn hỏi là công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng với tôi khi tôi đang mang thai như vậy thì có đúng hay không? ( Chị Hà Thị Anh – Hai Bà Trưng, Hà Nội)

Luật sư xin tư vấn như sau:

Việc Công ty A đã ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động căn cứ theo điểm a, khoản 1, Điều 36, Bộ luật Lao động năm 2019:

“Điều 36. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động.

1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp sau đây:

a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở…”.

Tuy nhiên, theo Điều 37, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động nữ mang thai; người lao động đang nghỉ thai sản hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Như vậy, công ty bạn không được đơn phương chấm dứt hợp đồng, việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bạn đang mang thai là trái với quy định của pháp luật. Công ty có thể bị phạt 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi (điểm e, khoản 2, Điều 27, Nghị định 28/2020/NĐ-CP).

Ngoài ra, bạn cũng có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Công ty phải có nghĩa vụ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo Điều 41, Bộ luật Lao động:

“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.

Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.

3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động”.

Trên đây là nội dung liên quan đến các trường hợp người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp cần tư vấn cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp liên quan, Quý Khách hàng có thể liên hệ tới Công ty Luật Hiệp Thành để nhận được sự tư vấn tốt nhất.

Trân trọng!
Công ty Luật TNHH Hiệp Thành
0942141668
Email: luathiepthanh@gmail.com

VietinBank báo lãi ròng 11.200 tỉ đồng sau 9 tháng đầu năm 2021

Kết quý 3/2021, VietinBank báo lãi sau thuế 2.465 tỉ đồng, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước, trong bối cảnh nợ nghi ngờ tăng mạnh so với quý liền trước.

Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank – Mã CK: CTG) vừa công bố kết quả kinh doanh quý 3/2021 với 3.060 tỉ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này, lũy kế 9 tháng đầu năm 2021, lợi nhuận trước thuế của VietinBank đạt 13.910,8 tỉ đồng.

Trừ đi chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà băng này báo lãi ròng 11.233,2 tỉ đồng, tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước.

Thu nhập lãi thuần của VietinBank vẫn tăng trưởng 24% so với cùng kỳ, đạt 31.392,5 tỉ đồng sau 9 tháng đầu năm 2021. Tiếp đến là lãi thuần từ hoạt động dịch vụ và lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, lần lượt đạt 3.794,3 tỉ đồng và 1.355,1 tỉ đồng. Các hoạt động khác cũng đem về cho VietinBank khoản lãi thuần 1.937,5 tỉ đồng, cao gấp 1,6 lần so với cùng kỳ năm trước.

Chi phí hoạt động của VietinBank chỉ tăng nhẹ, đạt mức 11.346,2 tỉ đồng, trong khi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng 22,2%, đạt 14.004 tỉ đồng.

Riêng trong quý 3/2021, chi phí dự phòng tín dụng của VietinBank đạt 5.547 tỉ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước. Trên bảng cân đối, tính đến ngày 30/9/2021, VietinBank đã trích lập tới 21.464 tỉ đồng dự phòng rủi ro cho vay khách hàng, tăng 70% so với đầu năm và 14% so với quý liền trước.

Việc VietinBank đẩy mạnh dự phòng diễn ra trong bối cảnh nợ nghi ngờ của nhà băng này tăng mạnh trong quý 3/2021, ở mức 11.631 tỉ đồng (tại ngày 30/9), tăng 7 lần so với đầu năm và 9,5 lần so với quý liền trước. Trong khi đó, nợ có khả năng mất vốn của VietinBank lại giảm mạnh, đạt 3.543 tỉ đồng, chưa bằng 1/3 so với cuối quý 2/2021.

Nhìn chung, tổng dư nợ nhóm 3-5 của VietinBank tại thời điểm cuối quý 3/2021 đạt 18.097 tỉ đồng. Tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đạt 1,7%, tăng gần gấp đôi so với đầu năm.

Về phía nguồn vốn, tại ngày 30/9/2021, số dư tiền gửi khách hàng của VietinBank đạt 1.072.893 nghìn tỉ đồng, tăng 8,3% so với đầu năm. Nhà băng này cũng tích cực huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá với số dư tính đến cuối quý 3/2021 đạt 70.194 tỉ đồng, tăng 17% so với đầu năm.

Theo Baomoi.com

Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của giới đầu tư

Viện nghiên cứu quốc tế Singapore (SIIA) nhận định, đợt dịch Covid-19 bùng phát vừa qua gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và chuỗi cung ứng, song Việt Nam vẫn được giới đầu tư quốc tế xác định là điểm đến hấp dẫn.

Sản xuất tại Công ty TNHH điện tử Chilisin Việt Nam. 

Với tựa đề “Từ khủng khoảng tới bệnh đặc hữu: Lưỡng lự hay tiếp tục tiến về phía trước”, báo cáo của SIIA đánh giá về nhóm các nền kinh tế chủ chốt của ASEAN, chiếm khoảng 70% GDP của khối, gồm Indonesia, Việt Nam, Thái Lan và Malaysia.

TTXVN dẫn nội dung báo cáo nêu rõ, năm 2020, Việt Nam được coi là hình mẫu về kiểm soát đại dịch với các biện pháp mạnh mẽ. Năm 2021, do đợt dịch mới bùng phát, hoạt động sản xuất và chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Tuy nhiên, ở tầm vĩ mô, nền kinh tế Việt Nam cho thấy sức bật đáng kể, khi thương mại vẫn tăng trưởng mạnh với tổng giá trị thương mại hàng hóa trong 5 tháng đầu năm 2021 tăng 33,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Tại hội thảo công bố báo cáo nêu trên ngày 26/10, các chuyên gia SIIA nhấn mạnh, những vấn đề của năm 2021 không khiến các nhà đầu tư nước ngoài quay lưng với Việt Nam.

Về dài hạn, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn có điểm mạnh vượt trội so với các nền kinh tế chủ chốt trong ASEAN, đó là sự ổn định chính trị. Sức hấp dẫn của Việt Nam còn nhờ các chính sách về sản xuất và công nghệ. Dự báo, Việt Nam vẫn có thể thu hút khoảng 30 tỷ USD vốn FDI trong năm nay, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo Baomoi.com