Bộ Nội vụ đề nghị bỏ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học

Bộ Nội vụ đề nghị không yêu cầu về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học trong quy định về trình độ đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức. Các Bộ quản lý chuyên ngành nghiên cứu, quy định về tiêu chuẩn năng lực ngoại ngữ, tin học phù hợp với yêu cầu về chức trách, nhiệm vụ của ngạch, chức danh nghề nghiệp tương ứng.

Bộ Nội vụ cho biết, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát, cắt giảm chứng chỉ bồi dưỡng không phù hợp đối với công chức, viên chức, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 89/2021/NĐ-CP và ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 02/2021/TT-BNV.

Để bảo đảm đồng bộ trong việc triển khai thực hiện chủ trương nêu trên, Bộ Nội vụ đề nghị các Bộ quản lý ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khẩn trương xây dựng, ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn nghiệp vụ, chuyên môn các ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành được giao quản lý.

Theo đó, với quy định về tiêu chuẩn năng lực ngoại ngữ, tin học, Bộ Nội vụ đề nghị không yêu cầu về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học trong quy định về trình độ đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức. Các Bộ quản lý chuyên ngành nghiên cứu, quy định về tiêu chuẩn năng lực ngoại ngữ, tin học phù hợp với yêu cầu về chức trách, nhiệm vụ của ngạch, chức danh nghề nghiệp tương ứng.

Trường hợp trong tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức có sự thay đổi về trình độ đào tạo dẫn đến thay đổi về việc xếp lương, đề nghị Bộ quản lý chuyên ngành nghiên cứu hướng dẫn cách chuyển xếp lương từ ngạch, chức danh (cũ) sang ngạch, chức danh quy định tại Thông tư (mới) tương ứng, bảo đảm nguyên khi chuyển tắc tính ổn định, phù hợp với thực tiễn khi tổ chức thực hiện.

Với quy định về chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức, Bộ Nội vụ lưu ý đối với các ngạch công chức chuyên ngành đề nghị quy định chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với công chức giữ ngạch tương ứng theo quy định khoản 3 Điều 17 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 89/2021/NĐ-CP.

Đối với các chức danh nghề nghiệp viên chức trong cùng một chuyên ngành đề nghị quy định chung 01 chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành (không chia theo hạng chức danh nghề nghiệp như trước đây) hoặc chứng chỉ hành nghề (nếu có) theo quy định tại khoản 4 Điều 17, khoản 2 Điều 26 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4, khoản 9 Điều 1 Nghị định số 89/2021/NĐ-CP.

Bộ Nội vụ đề nghị các bộ khẩn trương tổ chức thực hiện, hoàn thành trước ngày 31/12/2021 để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ

Theo Baomoi.com

Quy định mới về 19 điều Đảng viên không được làm

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa ký Quy định 37 của Ban chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, thay thế Quy định 47 năm 2011.

Quy định mới giữ nguyên 19 điều như trước, kế thừa cơ bản những nội dung còn phù hợp, bổ sung một số nội dung mới cho phù hợp.

Nội dung sửa đổi, bổ sung là những vấn đề cốt lõi, quan trọng về rèn luyện tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng, của Hiến pháp năm 2013; những nội dung mới trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã ban hành trong thời gian qua.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Ở quy định cũ (quy định 47 năm 2011), điều 13 nghiêm cấm đảng viên báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản thân không trung thực; kê khai tài sản, thu nhập không đúng quy định; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định; tham gia hoạt động rửa tiền.

Ở quy định mới (quy định 37 năm 2021), Trung ương bổ sung một số hành vi nghiêm cấm được quy định tại điều 9, đó là không được sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận giả, không hợp pháp; nhập quốc tịch, chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài, mở tài khoản và mua bán tài sản ở nước ngoài trái quy định”.

Các hành vi khác được bổ sung vào những điều đảng viên không được làm còn có: Không được “đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý”; không được “có hành vi chạy chức chạy quyền”, “tham ô” …

Quy định mới về những điều đảng viên không được làm - Ảnh 2.

Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII

Quy định 37-QĐ/TW: 19 điều đảng viên không được làm

Điều 1: Nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép.

Điều 2: Không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép.

Điều 3: Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; “tư duy nhiệm kỳ”, đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng.

Điều 4: Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những thông tin, quan điểm trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Điều 5: Viết bài hoặc cung cấp tài liệu cho người khác viết, nói, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, bài nói, phỏng vấn, hồi ký, phim, ảnh không đúng quy định.

Điều 6: Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấy tên, mạo tên. Gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo dưới mọi hình thức đến nơi không có thẩm quyền giải quyết.

Đe dọa, trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo; không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo, phê bình, góp ý; kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.

Điều 7: Tổ chức, tham gia các tổ chức, hội trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; biểu tình, tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh.

Điều 8: Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, cục bộ gây mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng việc phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng, Nhà nước để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tùy tiện đối với tổ chức, cá nhân.

Điều 9: Báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, kê khai tài sản, thu nhập không trung thực. Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận giả, không hợp pháp; nhập quốc tịch, chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài, mở tài khoản và mua bán tài sản ở nước ngoài trái quy định.

Điều 10: Chủ trì, tham mưu ban hành văn bản có nội dung trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện không đúng quy định trong quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng nhà, đất, tài nguyên, tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước.

Điều 11: Vi phạm đạo đức công vụ, bao che, báo cáo sai sự thật khi thực hiện nhiệm vụ; thiếu trách nhiệm để cơ quan, đơn vị, địa phương, cá nhân do mình trực tiếp quản lý xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các vi phạm khác.

Không báo cáo, không xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Can thiệp, tác động hoặc để vợ (chồng), con, bố, mẹ, anh, chị, em ruột mình, bên vợ (chồng) và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình để trục lợi.

Lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Điều 12: Có hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay, can thiệp, tác động dưới mọi hình thức đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được tiếp nhận, tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, khen thưởng, phong tặng danh hiệu, đi học, đi nước ngoài, thực hiện chế độ, chính sách cán bộ trái quy định.

Điều 13: Can thiệp, tác động vào hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xét đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo để bao che, tiếp tay cho các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tác động, ép buộc, mua chuộc tổ chức, cá nhân để giảm trách nhiệm, hình phạt cho người khác.

Điều 14: Tham ô, đưa, nhận, môi giới hối lộ hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới, hối lộ dưới mọi hình thức; tổ chức, tham gia hoặc tạo điều kiện thực hiện hoạt động rửa tiền, đi vay, cho vay trái quy định của pháp luật.

Điều 15: Tặng, nhận quà dưới mọi hình thức để tác động đến tổ chức, người có trách nhiệm dẫn đến việc quyết định sai, có lợi riêng cho bản thân hoặc cá nhân, tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp.

Điều 16: Không thực hành tiết kiệm, để xảy ra thất thoát, lãng phí trong việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công trái quy định.

Điều 17: Can thiệp, tác động để vợ (chồng), con, bố, mẹ, anh, chị, em ruột mình, bên vợ (chồng), bản thân và người khác đi du lịch, học tập, chữa bệnh bằng nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến ngành, lĩnh vực theo dõi, quản lý.

Điều 18: Tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; sử dụng các chất ma túy; sử dụng rượu, bia không đúng quy định hoặc đến mức bê tha và các tệ nạn xã hội khác.

Tổ chức việc cưới, việc tang và các sự kiện khác của cá nhân, gia đình xa hoa, lãng phí hoặc nhằm mục đích vụ lợi.

Thờ ơ, vô cảm với các hành vi sai trái trong xã hội; có hành vi bạo lực trong gia đình; vi phạm chính sách dân số; sống chung với người khác như vợ chồng, vi phạm quy định về kết hôn với người nước ngoài.

Điều 19: Mê tín, hoạt động mê tín; ủng hộ hoặc tham gia các tôn giáo bất hợp pháp hoặc lợi dụng các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi.

Theo Baomoi.com

Hành khách đi máy bay chỉ phải thực hiện khai báo y tế điện tử

Theo quyết định mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải, hành khách khi đi máy bay sẽ chỉ khai báo y tế điện tử trên ứng dụng PC-COVID (phần khai báo di chuyển nội địa)

Tối muộn ngày 28/10, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải vừa ban hành Quyết định số 1887 sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại quy định tạm thời về tiếp tục triển khai các đường bay nội địa chở khách thường lệ đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19.

Quyết định của Bộ Giao thông Vận tải được ban hành ngay sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông có văn bản thống nhất triển khai phát triển ứng dụng và kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ cho hoạt động vận tải vào chiều tối 28/10.

Cụ thể, nâng cấp tính năng “Khai báo di chuyển nội địa” của ứng dụng PC-COVID theo hướng phù hợp với yêu cầu, quy định vận chuyển hành khách nội địa của Bộ Giao thông Vận tải; phát triển thêm tính năng trích xuất thông tin cho các đơn vị được chỉ định của Bộ Giao thông Vận tải để phối hợp với các địa phương có phương án triển khai các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định.

Bộ Thông tin và Truyền thông cũng thống nhất biểu mẫu thông tin mà ứng dụng PC-COVID sẽ xuất và gửi dữ liệu định kỳ đến các đơn vị được chỉ định theo đề xuất của ngành giao thông vận tải và sẵn sàng cung cấp dữ liệu từ ngày 29/10/2021.

“Đây là một cơ sở rất quan trọng để Bộ Giao thông Vận tải điều chỉnh các quy định tạm thời hiện nay theo hướng đơn giản hơn các thủ tục để tổ chức các chuyến bay hiệu quả, nhanh chóng, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc di chuyển của người dân,” lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải đánh giá.

Đối với hành khách, ngoài những điều kiện và yêu cầu bắt buộc về y tế như các hướng dẫn trước đây, trong Quyết định lần này cũng chỉ rõ thay vì vừa phải khai báo y tế, vừa hoàn thành bản cam kết theo mẫu và chuyển cho đại diện hãng hàng không khi làm thủ tục tại điểm xuất phát, hành khách khi đi máy bay sẽ chỉ khai báo y tế điện tử trên ứng dụng PC-COVID (phần khai báo di chuyển nội địa); khuyến khích hành khách chủ động khai báo từ trước khi làm thủ tục hàng không.

Trong trường hợp hành khách không có thiết bị hoặc gặp khó khăn khi sử dụng các thiết bị điện tử thông minh, hãng hàng không có trách nhiệm bố trí nhân lực, thiết bị để hướng dẫn, hỗ trợ người dân cài đặt ứng dụng và khai báo.

Phía Bộ Giao thông Vận tải cũng chỉ ra sự thuận lợi với việc các hành khách đều được khai báo di chuyển nội địa trên duy nhất một ứng dụng cũng sẽ giúp thống nhất và rất thuận lợi để trích xuất dữ liệu di chuyển của hành khách trực tiếp từ ứng dụng PC-COVID.

Bên cạnh đó, quy định mới cũng chỉ yêu cầu các hãng hàng không cung cấp danh sách hành khách cho cảng vụ để chuyển cho địa phương vào 2 khung giờ mỗi ngày (14 giờ và 22 giờ) thay vì trước mỗi chuyến bay như trước đây và điều này sẽ giúp thời gian làm thủ tục của hành khách, việc trích xuất dữ liệu cũng nhanh chóng hơn; giảm thiểu áp lực về nhân lực đối với các đơn vị hàng không.

Quyết định này có hiệu lực kể từ 0 giờ ngày 29/10/2021 cho đến khi có Quyết định thay thế.

Thời gian tới, căn cứ tình hình diễn biến của dịch bệnh và sự thích nghi chung theo tinh thần Nghị quyết 128 của Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Y tế để nghiên cứu những giải pháp nhằm giảm thiểu các khâu trung gian trong việc tổng hợp, tiếp nhận và xử lý thông tin hành khách di chuyển nội địa trên cả 5 hình thức để ban hành những quy định, quy trình mới cho phù hợp.

Theo Baomoi.com

Cá nhân kêu gọi từ thiện phải có điều kiện gì theo quy định mới nhất?

Cá nhân chỉ được kêu gọi từ thiện nếu có đủ năng lực hành vi dân sự, phải cam kết thời gian giải ngân từ thiện, đồng thời có thông báo với UBND cấp xã nơi cư trú… là những quy định chặt chẽ về điều kiện hoạt động từ thiện của cá nhân theo Nghị định 93/2021/NĐ-CP.

Theo Điểm h khoản 1 Điều 2 Nghị định 93/2021, từ 11-12, cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự tham gia vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.

Ngoài ra, cá nhân phải cam kết thời gian giải ngân từ thiện. Theo Khoản 1 Điều 17 Nghị định này, khi vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện để hỗ trợ thiên tai, dịch bệnh, sự cố, cá nhân có trách nhiệm thông báo trên các phương tiện thông tin truyền thông về mục đích, phạm vi, phương thức, hình thức vận động, tài khoản tiếp nhận (đối với tiền), địa điểm tiếp nhận (đối với hiện vật), thời gian cam kết phân phối và gửi bằng văn bản đến UBND cấp xã nơi cư trú theo mẫu Thông báo ban hành kèm theo Nghị định này.

Quy định yêu cầu người vận động từ thiện phải cam kết thời gian phân phối tiền, hiện vật quyên góp nhằm hạn chế tình trạng “chậm giải ngân” từ thiện, thiên tai đã qua nhiều tháng mà tiền vẫn chưa đến tay người dân vốn xôn xao trên mặt báo thời gian vừa qua.

Cũng theo Nghị định 93/2021, khi vận động từ thiện cá nhân phải mở tài khoản riêng để tiếp nhận tiền từ thiện. Theo Khoản 2 Điều 17, cá nhân mở tài khoản riêng tại ngân hàng thương mại theo từng cuộc vận động để tiếp nhận, quản lý toàn bộ tiền đóng góp tự nguyện, bố trí địa điểm phù hợp để tiếp nhận, quản lý, bảo quản hiện vật đóng góp tự nguyện trong thời gian tiếp nhận; có biên nhận các khoản đóng góp tự nguyện bằng tiền mặt, hiện vật tiếp nhận được khi tổ chức, cá nhân đóng góp yêu cầu.

Cá nhân không được tiếp nhận thêm các khoản đóng góp tự nguyện sau khi kết thúc thời gian tiếp nhận đã cam kết và có trách nhiệm thông báo đến nơi mở tài khoản về việc dừng tiếp nhận các khoản đóng góp tự nguyện.

Bên cạnh đó, người vận động từ thiện phải thông báo với chính quyền nơi đến từ thiện. Khoản 1 Điều 18 nêu rõ, căn cứ nguồn đóng góp tự nguyện của từng cuộc vận động, tiếp nhận, cá nhân có trách nhiệm thông báo với UBND nơi tiếp nhận hỗ trợ để phối hợp xác định phạm vi, đối tượng, mức, thời gian hỗ trợ và thực hiện phân phối, sử dụng theo đúng cam kết tại khoản 1 Điều 17 và quy định tại Nghị định này, kể cả đối với những khoản đóng góp có điều kiện, địa chỉ cụ thể (nếu có).

Như vậy, mọi hoạt động từ thiện không thông qua chính quyền địa phương đều được coi là vi phạm quy định.

Ngoài ra, cá nhân phải ghi chép đầy đủ thông tin về việc phân phối tiền từ thiện. Theo Khoản 3 Điều 19, cá nhân có trách nhiệm mở sổ ghi chép đầy đủ thông tin về kết quả tiếp nhận, phân phối tiền, hiện vật đóng góp tự nguyện theo đối tượng, địa bàn được hỗ trợ, thực hiện công khai theo các nội dung quy định trên các phương tiện truyền thông và gửi kết quả bằng văn bản tới UBND cấp xã nơi cư trú để niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan trong 30 ngày. Thời điểm công khai thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này.

Đặc biệt, cá nhân vận động từ thiện còn phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của các cơ quan chức năng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Theo Baomoi.com

Nhà giáo thắng kiện sau 15 năm: Chưa thi hành án theo luật định

Trải qua ba bản án sơ thẩm, ba bản án phúc thẩm, hai quyết định giám đốc thẩm, thầy Lê Cao Tánh (Lâm Đồng) đã thắng kiện sau 15 năm đáo tụng đình.

Trường THCS Nguyễn Du, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng – nơi liên quan vụ việc.

Tuy nhiên, từ khi có quyết định của tòa (3/6/2021) đến nay vụ việc chưa được triển khai thi hành án (THA) theo quy định của pháp luật.

Chi cục THA chưa nhận được quyết định của tòa

“Tôi đã gửi văn bản và chi cục THA cũng gửi văn bản cho Tòa cấp cao mà chưa thấy trả lời. Chắc là thiếu sót của thư ký, vì tất cả các cơ quan khác đều nhận được chỉ có nơi quan trọng nhất để thi hành thì không nhận được” – ông Lê Cao Tánh.

Liên quan vụ việc, ngày 28/10, trao đổi với GD&TĐ qua điện thoại, ông Nguyễn Sỹ Cần – Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng cho biết, ông đã mời ông Lê Cao Tánh lên làm việc và cũng đã giải thích về vụ việc.

Theo pháp luật bản án đang thi hành thì lại gặp một kháng nghị giám đốc thẩm, sau đó thì có một quyết định của Hội đồng thẩm phán của Tòa án cấp cao xử y án trở lại. Ông Tánh đã nhận được quyết định của tòa. Tuy nhiên, Chi cục THA TP Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) thì chưa nhận được.

“Khi mời ông Tánh lên làm việc chúng tôi đã phân tích. Thậm chí trước sự chứng kiến của ông Tánh tôi đã gọi điện thoại trao đổi với người quen làm tại tòa cấp cao về việc chuyển quyết định về bản án của tòa để chúng tôi tiếp tục thi hành.

Đồng thời, chúng tôi cũng đã có văn bản gửi tòa cấp cao về vụ việc. Thế nhưng đến thời điểm hiện tại (28/10) chúng tôi vẫn chưa nhận được quyết định về bản án của tòa cấp cao. Khi nhận được thì chúng tôi sẽ tiến hành thi hành án theo luật…” – ông Nguyễn Sỹ Cần thông tin.

Liên quan chi phí THA, ông Cần cho rằng chuyện chi phí cao thấp ai nói thế nào thì ông không rõ nhưng để thi hành bản án này phải hội đủ các cơ sở pháp lý. “Chúng tôi sẽ căn cứ theo các quy định của pháp luật để buộc người ta phải thực hiện đúng luật. Luật quy định thế nào thì chúng tôi làm như thế thôi” – ông Nguyễn Sỹ Cần cho biết.

Trước đó, ngày 21/7, trao đổi với GD&TĐ, ông Huỳnh Quang Long – Phó Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Lâm Đồng thông tin vụ kiện đã có phán quyết cuối cùng thì các cơ quan liên quan phải thực thi. Tuy nhiên, hiện Sở cũng rất lúng túng trong chuyện thi hành án đối với trường hợp của ông Tánh.

Thứ nhất, không biết lấy tiền (614,68 triệu đồng) từ đâu đề đưa cho ông Tánh. Thứ 2, Trường THPT bán công Nguyễn Du nơi ông Tánh dạy khi trước, nay đã chuyển thành Trường THCS Nguyễn Du mà ông Tánh thì dạy THPT. Thậm chí hiệu trưởng xử lý kỷ luật ông Tánh nay cũng đã qua đời. Thứ 3, ông Tánh đã nghỉ dạy lâu rồi nay không biết đứng lớp thì có ổn không…

Theo TS Bùi Kim Hiếu – Trưởng Khoa Luật Trường ĐH Ngoại ngữ – Tin học TPHCM (HUFLIT), Khoản 4 Điều 48 Luật thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn THA quy định tại Khoản 1 Điều này không còn, hết thời hạn hoãn THA theo yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ trưởng cơ quan THA dân sự phải ra quyết định tiếp tục THA”.

“Như vậy, trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Quyết định không kháng nghị của TAND Cấp cao tại TPHCM thì cơ quan THA phải ban hành Quyết định tiếp tục THA để tổ chức thi hành án” – TS Bùi Kim Hiếu chia sẻ.

“Làm ảnh hưởng xấu đến uy tín nhà trường”?

Quyết định giám đốc thẩm ngày 3/6/2021 của Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TPHCM khép lại 15 năm đi kiện của ông Tánh.

Theo hồ sơ vụ án, tháng 12/2004, ông Lê Cao Tánh (SN 1972) ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn với Trường THPT bán công Nguyễn Du (nay là Trường THCS Nguyễn Du, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng). Ông Tánh dạy môn Giáo dục công dân và môn Văn tại trường này.

Vào sáng 12/12/2006, một học sinh (HS) lớp 10 thấy ông Tánh đi ngang đã gọi tên ông và chửi bậy trước đám đông. Ông đưa HS này về phòng giám thị hỏi lý do. HS này trả lời với thái độ hỗn hào. Ông Tánh không kiềm chế được, đã tát làm em HS này chảy máu cam.

Tháng 2/2007, Hiệu trưởng nhà trường ra quyết định sa thải ông Tánh với lý do “vi phạm về phẩm chất của người thầy. Trong quá trình xử lý HS vô lễ với giáo viên đã không kìm được nóng nảy, đánh HS gây chấn thương mũi; việc làm phản tác dụng giáo dục này đã ảnh hưởng xấu đến uy tín nhà trường và ngành giáo dục, tạo dư luận không tốt trong xã hội”.

Sau đó, tháng 7/2007, ông Tánh khởi kiện yêu cầu tòa án hủy quyết định kỷ luật sai thải này; yêu cầu Sở GD&ĐT tỉnh Lâm Đồng nhận ông về làm việc trở lại tại Trường THPT Bùi Thị Xuân; yêu cầu Trường THCS Nguyễn Du bồi thường các khoản ước tính 10 tỷ đồng.

Từ quyết định khởi kiện này, ông Tánh trải qua hành trình 15 năm theo đuổi vụ viêc với nhiều cung bậc cảm xúc “nay thua, mai thắng, rồi lại thua…”. Cụ thể, ở phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm, TAND TP Đà Lạt và TAND tỉnh Lâm Đồng đều bác đơn kiện.

Tháng 6/2011, Viện KSND Tối cao ra kháng nghị, đề nghị TAND Tối cao xử giám đốc thẩm theo hướng hủy cả án sơ thẩm và phúc thẩm. Ngày 27/9/2011, TAND Tối cao xử giám đốc thẩm, hủy án sơ thẩm và phúc thẩm để giải quyết lại theo hướng chấp nhận yêu cầu của ông Tánh.

Tại phiên xử sơ thẩm lần 3, ngày 14/1/2020, TAND TP Đà Lạt chấp nhận yêu cầu của ông Tánh. Lần này, Trường THCS Nguyễn Du và ông Tánh cùng có kháng cáo.

Đến phiên xử phúc thẩm lần 3, ngày 22/6/2020, TAND tỉnh Lâm Đồng không chấp nhận kháng cáo của Trường THCS Nguyễn Du, chấp nhận yêu cầu của ông Tánh, sửa án sơ thẩm, tuyên hủy quyết định kỷ luật, buộc Trường THCS Nguyễn Du nhận ông Tánh trở lại làm việc và bồi thường cho ông 614,68 triệu đồng, tiếp tục trả lương cho ông theo mức lương hiện hành tính từ tháng 1/2020 cho đến khi nhận ông vào làm lại…

Sau đó, ngày 22/7/2020, Trường THCS Nguyễn Du có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm lần 3. Ngày 13/11/2020, Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại TPHCM kháng nghị, đề nghị TAND Cấp cao tại TPHCM hủy án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND TP Đà Lạt xét xử sơ thẩm lại.

Tới ngày 3/6/2021, phiên tòa giám đốc thẩm diễn ra với 10 thành viên Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TPHCM đã quyết định không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm lần 3, tuyên hủy quyết định kỷ luật, buộc Trường THCS Nguyễn Du nhận ông Lê Cao Tánh trở lại làm việc và bồi thường cho ông 614,68 triệu đồng.

Với phán quyết lần này, ông Tánh có quyền tiếp tục sự nghiệp trồng người tại ngôi trường mà ông từng gắn bó.

“Đến thời điểm hiện tại (28/10) chúng tôi vẫn chưa nhận được quyết định về bản án của Tòa cấp cao. Khi nhận được bản án thì chúng tôi sẽ tiến hành thi hành án theo quy định của pháp luật” – ông Nguyễn Sỹ Cần – Chi Cục trưởng Chi cục THA dân sự TP Đà Lạt.

Theo Baomoi.com

Điều cần lưu ý trong quá trình triển khai Nghị quyết 128 và Quyết định 4800

Bà Nguyễn Thị Liên Hương – Cục trưởng Cục Quản lý Môi trường Y tế (Bộ Y tế) đã nêu những vấn đề cần lưu ý trong quá trình triển khai Nghị quyết 128 và Quyết định 4800.

Trong quá trình triển khai Nghị quyết 128 và quyết định 4800, cần lưu ý đặt tính mạng, sức khỏe người dân lên hàng đầu.

Bà Nguyễn Thị Liên Hương – Cục trưởng Cục Quản lý Môi trường Y tế (Bộ Y tế), trong quá trình triển khai Nghị quyết 128 và quyết định 4800, cần lưu ý đặt tính mạng, sức khỏe người dân lên hàng đầu. Đồng thời, thống nhất, thực hiện theo quy định và hướng dẫn của các bộ ngành.

Phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong kiểm soát tình hình dịch bệnh. Tạo điều kiện khôi phục sản xuất kinh doanh, đưa đời sống người dân trở lại trạng thái bình thường mới. Không để tình trạng cục bộ, cắt cứ trong ban hành và thực hiện các giải pháp trên mức cần thiết.

Phạm vi cấp độ dịch được phân loại theo 4 cấp, từ quy mô cấp xã. Khuyến khích đánh giá từ phạm vi, quy mô nhỏ nhất có thể, nhằm đảm bảo linh hoạt, hiệu quả.

Bà Liên Hương nhấn mạnh, áp dụng cấp độ dịch ở quy mô càng nhỏ, càng đảm bảo phòng chống dịch, tiết kiệm chi phí an sinh xã hội cho người dân. Bên cạnh đó, các địa phương cần xác định rõ, đánh giá cấp huyện, cấp tỉnh nhằm mục đích gì?

Về vấn đề xét nghiệm, Cục trưởng Liên Hương cho biết, cần thực hiện theo địa bàn nguy cơ và nhóm nguy cơ. Trong đó, bao gồm trường hợp nghi ngờ sốt, ho, khó thở… Tầm soát ngẫu nhiên, định kỳ do cơ quan y tế thực hiện. Siêu thị, cơ quan, công sở tự thực hiện xét nghiệm ngẫu nhiên cho người có nguy cơ lây nhiễm. Trong khi đó, thực hiện cách ly y tế theo hướng dẫn hiện hành của Bộ Y tế.

Về tình hình triển khai, Cục trưởng Liên Hương cho biết, toàn bộ 63 tỉnh thành đã tổ chức triển khai đánh giá và công bố cấp độ dịch. Đã có trên 40 tỉnh thành ban hành kế hoạch thích ứng của địa phương hoặc văn bản chỉ đạo phòng chống dịch trong sản xuất, giao thông… Bộ Y tế đã tổ chức tập huấn trực tiếp cho UBND, Ban chỉ đạo Phòng chống dịch 63 tỉnh thành, nhằm quán triệt và thống nhất triển khai trên phạm vi toàn quốc. Công điện số 1695 và 1700 ngày 25/10 hướng dẫn triển khai.

Theo Baomoi.com

Quy định mới về điều kiện đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài

Từ ngày 1/1/2022, tăng mức ký quỹ của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Ngày 10/12, Chính phủ đã ban hành Nghị định 112/2021/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó có quy định điều kiện đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài.

Nghị định 112/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/1/2022 và thay thế Nghị định 38/2020/NĐ-CP.

Tăng mức ký quỹ với doanh nghiệp xuất khẩu lao động

Tại Điều 23 Nghị định 112/2021/NĐ-CP quy định, doanh nghiệp thực hiện ký quỹ 2 tỷ đồng tại một ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (sau đây viết tắt là ngân hàng nhận ký quỹ).

Doanh nghiệp dịch vụ giao nhiệm vụ cho chi nhánh thực hiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải ký quỹ thêm 500 triệu đồng đối với mỗi chi nhánh được giao nhiệm vụ.

Như vậy, từ thời điểm có hiệu lực của Nghị định 112/2021/NĐ-CP, mức ký quỹ của doanh nghiệp là 2 tỷ đồng tại một ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

Trong khi đó, mức tiền ký quỹ đang áp dụng hiện nay là 1 tỷ đồng, doanh nghiệp dịch vụ chỉ được ký quỹ tại ngân hàng thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam.

Ngoài ra, Nghị định 112/2021/NĐ-CP có bổ sung nội dung mới là doanh nghiệp dịch vụ giao nhiệm vụ cho chi nhánh thực hiện hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải ký quỹ thêm 500 triệu đồng.

Đối với doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài, phải thực hiện ký quỹ tại một ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

Mức tiền ký quỹ bằng 10% một lượt vé máy bay hạng phổ thông từ nơi làm việc về Việt Nam tính theo số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong Hợp đồng nhận lao động thực tập.

Doanh nghiệp sẽ được nhận lại tiền ký quỹ trong các trường hợp sau đây:

Doanh nghiệp không nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động.

Doanh nghiệp không được cấp Giấy phép hoạt động hoặc doanh nghiệp đã ký quỹ tại tài khoản khác và đề nghị tất toán tài khoản đã ký quỹ trước đó hoặc doanh nghiệp dịch vụ đã giải thể theo quy định.

Doanh nghiệp đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài sau khi nộp lại Giấy phép hoặc bị thu hồi Giấy phép hoạt động.

Doanh nghiệp dịch vụ chấm dứt giao nhiệm vụ hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cho chi nhánh hoặc chi nhánh chấm dứt hoạt động…

Điều kiện đưa người lao động đi làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản

Nghị định 112/2021/NĐ-CP quy định rõ điều kiện hoạt động đưa người lao động đi làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản.

Theo đó, doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản phải duy trì các điều kiện quy định tại Điều 10 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và đáp ứng các điều kiện:

Thứ nhất, có đủ số lượng nhân viên nghiệp vụ để thực hiện nội dung hoạt động và đáp ứng các tiêu chuẩn sau: Có ít nhất 1 nhân viên nghiệp vụ thực hiện hoạt động tìm kiếm, phát triển thị trường lao động ngoài nước có năng lực tiếng Trung trình độ tối thiểu HSK5, tiếng Nhật trình độ tối thiểu N2 (chuẩn JLPT) hoặc tương đương; có ít nhất 1 nhân viên nghiệp vụ thực hiện hoạt động quản lý người lao động có năng lực tiếng Trung trình độ tối thiểu HSK5, tiếng Nhật trình độ tối thiểu N2 (chuẩn JLPT), hoặc tương đương và ít nhất 1 năm kinh nghiệm về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản; có ít nhất 1 nhân viên nghiệp vụ thực hiện hoạt động giáo dục định hướng có ít nhất 01 năm kinh nghiệm về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản.

Thứ hai, đối với thị trường lao động Đài Loan (Trung Quốc), doanh nghiệp dịch vụ phải không bị xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong thời hạn 2 năm tính đến ngày đề nghị Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội giới thiệu với cơ quan có thẩm quyền của Đài Loan (Trung Quốc).

Còn đối với thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp dịch vụ phải đáp ứng các tiêu chuẩn đối với doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại Nhật Bản theo thỏa thuận giữa Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội với cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản.

Theo Baomoi.com

Lao động thời vụ làm thêm không quá 40 giờ/tháng

Tổng số giờ làm thêm trong một tháng sẽ không quá 40 giờ thay vì không quá 32 giờ như quy định hiện hành, và giờ làm thêm trong một năm đối với mỗi người lao động không vượt quá 300 giờ…

Đây là một trong những nội dung vừa được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành trong Thông tư 18/2021/TT-BLĐTBXH quy định về thời giờ làm việc, nghỉ ngơi với người lao động làm công việc sản xuất thời vụ, gia công theo đơn đặt hàng, chính thức được áp dụng kể từ ngày 1/2/2022.

Quy định này được áp dụng với người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và hợp đồng lao động không xác định thời hạn làm công việc gồm: Sản xuất có tính thời vụ trong ngành nông – lâm – ngư – diêm nghiệp, đòi hỏi phải thu hoạch ngay hoặc sau khi thu hoạch phải chế biến ngay không để lâu dài được; gia công hàng theo đơn đặt hàng, bị phụ thuộc vào thời điểm chủ hàng yêu cầu.

Về tiêu chuẩn và số giờ làm thêm đối với lao động làm công việc thời vụ trên, thông tư nêu rõ, rổng số giờ làm việc tiêu chuẩn và số giờ làm thêm trong một ngày không quá 12 giờ.

Tổng số giờ làm việc tiêu chuẩn và số giờ làm thêm trong một tuần không quá 72 giờ. Tổng số giờ làm thêm trong một tháng không quá 40 giờ. Tổng số giờ làm thêm trong một năm đối với mỗi người lao động không quá 300 giờ.

Trong khi đó, theo quy định hiện hành tại Thông tư 54/2015/TT-BLĐTBXH, tổng số giờ làm việc tiêu chuẩn và số giờ làm thêm trong một tuần không quá 64 giờ, trong 1 tháng không quá 32 giờ.

Như vậy, với quy định mới này, tổng số giờ làm việc tiêu chuẩn và số giờ làm thêm trong một tuần của lao động thời vụ, lao động gia công theo đơn đặt hàng sẽ được tăng thêm đến 8 giờ/tuần; tổng số giờ làm thêm trong một tháng tăng thêm đến 8 giờ/tháng.

Về thời giờ nghỉ ngơi, thông tư quy định, hằng tuần, người lao động được nghỉ ít nhất một ngày (24 giờ liên tục). Trong những tháng thời vụ hoặc phải gấp rút gia công hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng, nếu không thực hiện được nghỉ hằng tuần thì phải bảo đảm hằng tháng có ít nhất 4 ngày nghỉ cho người lao động.

Thông tư này cũng bãi bỏ quy định về việc nghỉ bù, theo đó người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ ngày nghỉ lễ, Tết, nghỉ hằng năm và các ngày nghỉ có hưởng lương khác. Việc rút ngắn giờ làm việc và đảm bảo thời giờ nghỉ ngơi của lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao động là người cao tuổi; quyết định việc nghỉ không hưởng lương đúng theo quy định của Bộ luật Lao động.

Đồng thời, phải thông báo kế hoạch điều chỉnh thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong phạm vi doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân để người lao động biết, trước khi thực hiện ít nhất 30 ngày; thỏa thuận với người lao động khi làm thêm giờ theo quy định của Bộ luật Lao động.

Theo Baomoi.com

 

Năm 2025: Thu phí ô tô vào nội đô Hà Nội có khả thi?

Tiêu chí nào để lập 87 trạm thu phí? Vì sao đề xuất thu phí từ 5h00- 21h00, trong khi chỉ những giờ cao điểm nguy cơ ùn tắc cao mới nên thu phí?

Dư luận đang đặc biệt quan tâm đến phương án lập 87 trạm thu phí phương tiện vào nội đô do Sở GTVT Hà Nội và đơn vị tư vấn Trung tâm tư vấn phát triển GTVT (Trường Đại học GTVT) vừa xây dựng.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, khi phương tiện công cộng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của người dân, cần cân nhắc thời điểm thu phí…

Theo các chuyên gia, khi phương tiện công cộng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của người dân, việc thực hiện thu phí ô tô vào nội đô từ năm 2025 rất khó khả thi (Trong ảnh: Ùn tắc trên đường Trường Chinh, Hà Nội trong giờ cao điểm).

Căn cứ lập 87 trạm thu phí

Theo phương án của đơn vị tư vấn, các vị trí lập trạm thu phí hầu hết ở khu vực cửa ngõ vào trung tâm thành phố. Ranh giới để xác định giữa khu vực nội đô và ngoại thành là đường Vành đai 3 đã được khép kín.

Trên cơ sở tuyến đường khép kín khu vực nội đô đã được xác định, tư vấn đưa ra 68 vị trí để lập tổng cộng 87 trạm thu phí phương tiện từ bên ngoài vào nội thành.

Theo Đề án quản lý xe cá nhân, đến năm 2030, Hà Nội sẽ dừng hoạt động xe máy tại các quận nội thành. Hiện phương tiện tham gia giao thông trên địa bàn Hà Nội đã tăng lên 6.400.000, trong đó ô tô là 60.000 chiếc, xe máy là 5.600.000 xe. Số lượng ô tô hiện nay đang tăng cao hơn cả xe máy, mỗi năm thêm 10,2%.

Tư vấn cũng đề xuất khung giờ thu phí hàng ngày từ 5h00 – 21h00, có phân biệt mức thu theo giờ cao điểm sáng từ 6h00 – 9h00, chiều từ 16h00 – 19h30 theo quy định để khuyến khích chủ phương tiện và người dân hạn chế các chuyến đi không cần thiết.

Về các giai đoạn lập trạm thu phí, tư vấn đưa ra 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (từ năm 2021 – 2025) sẽ thí điểm, xây dựng 15 trạm thu phí tại 9 vị trí trên các trục đường nội đô có lưu lượng lớn; Giai đoạn 2 (từ năm 2025 – 2030) đầu tư xây dựng 59 trạm thu phí tại 46 vị trí phía Nam sông Hồng. Giai đoạn hoàn chỉnh (sau năm 2030) đầu tư xây dựng 13 trạm thu phí tại 13 vị trí để khép kín hoàn toàn vành đai thu phí.

Tổng mức đầu tư cho 87 trạm thu phí, tại 68 vị trí khoảng 2.600 tỷ đồng, chưa tính chi phí vận hành khai thác.

Hình thức đầu tư do ngân sách thành phố đầu tư và hình thức đối tác công tư. Công nghệ thu phí được dự kiến là công nghệ thu phí không dừng, kết hợp giữa công nghệ nhận diện vô tuyến RFID.

Đón nhận thông tin trên, dư luận đặc biệt quan tâm vì việc thu phí sẽ tác động tới hàng chục triệu người.

Trong đó, không ít ý kiến tỏ ra băn khoăn, chẳng hạn như: Tiêu chí nào để lập 87 trạm thu phí? Vì sao đề xuất thu phí từ 5h00 – 21h00, trong khi chỉ những giờ cao điểm nguy cơ ùn tắc cao mới nên thu phí? Nếu lái xe né các trạm thu phí, đi các tuyến đường khác gây ra những điểm ùn tắc mới thì xử lý thế nào?…

Tất cả những vấn đề trên đã được PV Báo Giao thông gửi tới lãnh đạo Sở GTVT Hà Nội, Trung tâm tư vấn phát triển GTVT (Trường Đại học GTVT), tuy nhiên chúng tôi chưa có câu trả lời, với lý do “đề án mới đang là đề xuất, vẫn chưa được TP Hà Nội phê duyệt”.

Vận tải công cộng chưa đáp ứng

Theo ông Bùi Danh Liên, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Vận tải TP Hà Nội, việc thu phí vào nội đô là giải pháp kinh tế để kéo giảm ùn tắc, phù hợp với xu thế phát triển của các đô thị lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, để thu phí thì cần đi kèm với các điều kiện. Trước hết, phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội và ý thức của người dân, nếu đi trước một bước, không thành công sẽ gây tốn kém.

“Đề án trên chỉ nên thực hiện khi các phương tiện giao thông công cộng đáp ứng được ít nhất 50% nhu cầu đi lại của người dân. Hiện nay, tỷ lệ này của Hà Nội mới chỉ đạt hơn 10%, người dân buộc phải di chuyển bằng phương tiện cá nhân. Nếu chỉ tiêu phương tiện công cộng chưa đạt được mà đã đặt ra việc thu phí liệu có khả thi không?”, ông Liên đặt vấn đề.

Cũng theo ông Liên, Hà Nội khó đáp ứng được các điều kiện trên vào năm 2025. Rất có thể đề án này phải tới năm 2030 mới thực hiện thí điểm.

“Phải có thời gian để có sự đồng thuận của người dân, khi trình độ dân trí và điều kiện kinh tế của người dân được nâng lên việc áp dụng mới phù hợp”, ông Liên bày tỏ.

Ông Trần Huy Ánh, Hội kiến trúc sư VN cũng cho rằng, việc thu phí cần được tính toán, kiểm soát kỹ lưỡng. Nếu không làm đến nơi đến chốn, dù Hà Nội có đầu tư hàng nghìn tỷ để lập các trạm thu phí xong vẫn không giải quyết được bài toán ùn tắc nội đô.

Trong khi đó, ông Trần Hữu Minh, Chánh văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia cho rằng, với đô thị lớn như Hà Nội, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cải thiện tình trạng giao thông là rất cần thiết.

Chủ trương thu phí phương tiện cá nhân vào nội đô cũng đã được nhiều quốc gia áp dụng. Tuy nhiên, với Hà Nội còn khá sớm để đánh giá nên hay không áp dụng phương án này, bởi chưa có các tính toán thuyết phục.

“Hà Nội muốn triển khai thu phí vào nội đô trước hết cần đánh giá tác động, tính toán tốc độ tăng phương tiện và những thiệt hại, ảnh hưởng mà người dân gặp phải. Nếu chứng minh được lợi ích vượt trội của việc thu phí mới nên triển khai”, ông Minh nói.

Dẫn kinh nghiệm hai thành phố ở Anh, ông Minh cho hay, London áp dụng thu phí vào nội đô giúp cải thiện giao thông đô thị, giảm ùn tắc và ô nhiễm môi trường.

Manchester cũng từng lập đề án thu phí, chính quyền đánh giá tác động rồi quyết định không thực hiện do lợi ích không đủ lớn.

“Giải pháp nào cũng có ưu, nhược điểm. Do đó, chính quyền cần dựa trên dữ liệu cụ thể để xem xét”, ông Minh nói thêm.

Còn theo ông Nguyễn Trọng Thông, Chủ tịch Hiệp hội Vận tải hành khách công cộng Hà Nội, tính đến năm 2021, Hà Nội mới chỉ có hơn 120 tuyến buýt, một tuyến BRT (Yên Nghĩa – Kim Mã) và hai tuyến đường sắt đô thị vẫn chưa đi vào khai thác. Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng mới chỉ đạt trên 10%.

“Theo đề án, chỉ vài năm nữa Hà Nội sẽ thu phí vào nội đô nhưng đến thời điểm hiện tại những ưu tiên cho phát triển vận tải hành khách công cộng để kiểm soát được phương tiện cá nhân thì chúng tôi chưa thấy. Ví dụ đường ưu tiên cho xe buýt được đề xuất từ năm 2016 nhưng đến nay chưa được thành phố chấp thuận thực hiện”, ông Thông nói và cho rằng, nếu vận tải công cộng phục vụ tốt nhu cầu của người dân thì không cần cấm xe cá nhân, không cần thu phí vào nội đô.

Theo đơn vị tư vấn, dự kiến giờ cao điểm mức thu phí vào nội đô sẽ là 50.000 đồng/lượt đối với ô tô cá nhân dưới 9 chỗ và 30.000 đồng/lượt đối với ô tô khách từ 9 chỗ trở lên và xe tải các loại. Việc thu phí sẽ giúp lưu lượng giao thông trên các trục đường chính giảm từ 8 – 30%, trung bình khoảng 12 – 18%.

Các phương tiện được giảm phí gồm xe ô tô kinh doanh vận tải (xe hợp đồng, xe du lịch, taxi, xe tuyến cố định, xe tải các loại), xe ô tô dưới 9 chỗ của người dân trong khu vực, xe ô tô của cơ quan công sở trong khu vực sẽ được miễn phí một số lượt nhất định, ngoài số đó sẽ phải trả phí bình thường.

Đối tượng miễn phí là xe ưu tiên theo quy định hiện hành bao gồm: Xe cảnh sát, xe cứu thương, xe cứu hỏa, xe quân đội, xe công vụ, xe buýt công cộng…

Theo Baomoi.com

Có được hợp, tách thửa đất trong diện quy hoạch phân lô?

Vừa qua ông Nguyễn Việt Hùng (Bà Rịa-Vũng Tàu) đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố để làm thủ tục hợp 2 thửa đất ở liền kề kích thước 2,91 x 25,12m và 3 x 19,3m, nhưng bị từ chối với lý do: Các thửa đất này thuộc quy hoạch 1/500 nên không được phép hợp thửa

Trường hợp thực hiện việc hợp hai thửa đất này, thì thửa đất sau khi hợp sẽ có kích thước chiều rộng là 5,91m chiều dài là 25,12m; không trùng khớp với lô D13 theo quy hoạch đã được phê duyệt (4,2-4,4m x 24,0m). Nếu giải quyết hợp thửa đối với trường hợp này sẽ phá vỡ quy hoạch đã được UBND tỉnh phê duyệt.

Ông Hùng hỏi, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai từ chối hợp thửa cho ông như vậy có đúng không?

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:

Tại Điều 75 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đã quy định về trình tự, thủ tục thực hiện tách thửa hoặc hợp thửa đất.

Điều 75a Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (bổ sung theo quy định tại Khoản 23 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai) quy định:

“Điều 75a. Quy định điều kiện tách thửa đất, hợp thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa

UBND cấp tỉnh căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng và điều kiện cụ thể tại địa phương để quy định cụ thể điều kiện tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất theo từng loại đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất”.

Căn cứ quy định nêu trên đề nghị ông Hùng nghiên cứu quy định cụ thể của địa phương và liên hệ lại với Văn phòng Đăng ký đất đai tại địa phương để được hướng dẫn giải quyết.

Theo Baomoi.com

Bộ GTVT chuẩn bị phương án khánh thành, bàn giao đường sắt Cát Linh – Hà Đông cho Hà Nội

Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát kỹ kế hoạch, phương án vận hành khai thác dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông và phê duyệt kế hoạch vận hành để sẵn sàng tiếp nhận, vận hành khai thác giai đoạn đầu sau khi có ý kiến của Hội đồng kiểm tra nhà nước về công tác nghiệm thu công trình xây dựng.

Chủ đầu tư đã hoàn tất các thủ tục pháp lý, tổ chức nghiệm thu hoàn thành công trình đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông

Theo thông báo của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã chủ trì và kết luận cuộc họp về công tác nghiệm thu đưa vào sử dụng Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông.

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đánh giá cao Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Hội đồng kiểm tra nhà nước về công tác nghiệm thu công trình xây dựng và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, phối hợp chặt chẽ giải quyết những khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác tổ chức nghiệm thu đưa Dự án vào vận hành khai thác tuân thủ theo quy định pháp luật.

Đến nay, Chủ đầu tư đã hoàn tất các thủ tục pháp lý, tổ chức nghiệm thu hoàn thành công trình theo quy định đủ điều kiện để Hội đồng tổ chức họp đánh giá kết quả nghiệm thu của Chủ đầu tư, nghiệm thu có điều kiện khai thác giai đoạn đầu như báo cáo của Hội đồng tại cuộc họp.

Việc hoàn thành và bàn giao đưa vào khai thác Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh Hà Đông phục vụ nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Để bảo đảm vận hành khai thác an toàn, ổn định, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chủ trì phối hợp Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ Ngoại giao, các cơ quan liên quan thống nhất phương án, kế hoạch tổ chức bàn giao, khánh thành Dự án.

Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát kỹ kế hoạch, phương án vận hành khai thác dự án và phê duyệt kế hoạch vận hành để sẵn sàng tiếp nhận, vận hành khai thác giai đoạn đầu sau khi có ý kiến của Hội đồng. Lưu ý bảo đảm công tác phòng chống dịch COVID-19; có phương án kết nối, trung chuyển bằng các phương tiện vận tải công cộng tại các nhà ga, đặc biệt tại nhà ga đầu tuyến (ga Cát Linh) và ga cuối tuyến (ga Yên Nghĩa) tạo thuận lợi cho người dân, bảo đảm an toàn giao thông, tránh gây ùn tắc.

Đây là tuyến đường sắt đô thị đầu tiên của cả nước hoàn thành đưa vào khai thác. Do vậy, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Hội đồng kiểm tra nhà nước về công tác nghiệm thu xây dựng công trình cần quan tâm đến công tác thông tin, tuyên truyền với yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, kịp thời cho nhân dân; trong đó Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tập trung tuyên truyền về kế hoạch, phương án tổ chức khai thác Dự án.

Theo Baomoi.com

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười tăng 6,9%

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười tăng 6,9% so với tháng Chín và giảm 1,6% so với cùng kỳ, tính chung 10 tháng chỉ số này đã tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2020.

Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ghi nhận tại thời điểm ngày 1/10 đã tăng 7,7% so với cùng thời điểm tháng Chín. 

Sản xuất công nghiệp trong tháng Mười khởi sắc khi các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng, hoạt động sản xuất kinh doanh từng bước được khôi phục trong trạng thái bình thường mới.

Theo báo cáo của Tổng cục Tổng cục Thông kê công bố ngày 29/10, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng Mười ước tính tăng 6,9% so với tháng Chín và giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước.

Cụ thể, ngành khai khoáng giảm 7,2%; ngành chế biến, chế tạo giảm 1,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 2,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,5% so với tháng Chín.

Tính cả 10 tháng của năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2020. Theo đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,5% (đóng góp 3,99 điểm phần trăm vào mức tăng chung); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,1% (đóng góp 0,36 điểm phần trăm); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,4% (đóng góp 0,05 điểm phần trăm); riêng ngành khai khoáng giảm 7% (làm giảm 1,1 điểm phần trăm).

Báo cáo cũng cho biết chỉ số sản xuất công nghiệp trong 10 tháng của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có mức tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 11 địa phương tăng cao và một số địa phương có chỉ số IIP giảm do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Về lao động, số lượng người làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ghi nhận tại thời điểm ngày 1/10 đã tăng 7,7% so với cùng thời điểm tháng Chín, song vẫn giảm 7,9% so với cùng thời điểm năm trước. Tương ứng, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 1,2% và giảm 3,4%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 7,2% và giảm 9,7%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9% và giảm 7,8%.

Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,6% so với cùng thời điểm tháng Chín và giảm 2,4% so với cùng thời điểm năm ngoái; ngành chế biến, chế tạo tăng 8,3% và giảm 8,5%…/.

Theo Baomoi.com